Đám cưới của người Việt xưa: Ẩn sau hôn lễ truyền thống là tầng tần lớp lớp ý nghĩa sâu sắc

Hôn lễ truyền thống của người Việt mang nhiều ý nghĩa sâu sắc bởi người xưa quan niệm rằng, cười hỏi là một trong ba việc lớn của đời người.

Đỗ Thu Nga Theo dõi
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Ca dao có câu:

Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà

Cả ba việc ấy đều là khó thay.

Ngày nay việc cưới hỏi chỉ còn lại phổ biến là chạm ngõ, lễ ăn hỏi, cưới. Nhưng trước đây, việc cưới hỏi phải qua đầy đủ các bước bao gồm: nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp tệ (lễ hỏi), thỉnh kỳ, thân nghinh, lễ gia tiên, lễ tơ hồng, hợp cẩn, nhị hỷ (tứ hỷ). Mỗi bước đều mang một ý nghĩa riêng, khiến phong tục cưới hỏi truyền thống trở nên phong phú và tinh tế.

Nạp thái: Lễ nạp thái có nghĩa là “thu nạp những sính lễ mà nhà trai mang đến để thưa chuyện với nhà gái”, ngày nay gọi là “dạm hỏi”.

Khi chấm được ai, nhà trai nhờ người mai mối đến nhà gái, lễ vật của nhà trai là cặp “chim nhạn” nên lễ này còn được gọi là “điện nhạn”, vì chim nhạn là loài chim rất chung tình, không sánh đôi hai lần. Loài chim này cũng rất thảo ăn, khi gặp mồi thì gọi nhau cùng ăn chung, khi một con chết rồi, thì con còn lại cũng buồn mà chết theo.

Năm nào cũng vậy, cứ hết mùa thu chim nhạn lại bay về phương Nam để tránh rét, khi hết rét lại bay về phương Bắc, không bao giờ thay đổi. Vì thế trong hôn nhân, lễ nạp thái với cặp chim nhạn mang còn mang ngụ ý nam nữ không bao giờ lỗi hẹn.

Đàn chim nhạn mỗi khi bay hay đậu đều rất có trật tự theo theo “nhạn tự”, “nhạn hành”, “nhạn trận”, “hồng tự”. Ví như mỗi khi phải bay rất xa về phương Nam, hay Bắc, chim nhạn thường bay thành hình chữ V, đó chính là “nhạn trận”. Tập quán này đã được hình thành từ cổ xưa, chen vào trong tiềm thức của nhạn từ khi mới chào đời, và đến nay tập quán đó vẫn không bao giờ thay đổi. Vì thế trong hôn nhân chim nhạn còn mang ý nghĩa là vợ chồng luôn chiểu theo văn hóa cổ truyền để hành xử.

Cũng vì đặc tính bay theo mùa như trên mà chim nhạn tượng trưng cho việc thuận theo âm dương (thuận theo thời tiết nóng lạnh), vợ chồng hòa hợp theo thiên tính, giúp đỡ và bổ trợ, tương hỗ lẫn nhau như âm dương vậy.

an-sau-hon-le-truyen-thong-la-tang-tan-lop-lop-y-nghia-sau-sac
Đám cưới người Việt thời xưa. (Tranh trong Bộ Chuyên khảo bằng tranh vẽ về Đông Dương – Monographie dessinée de l’Indochine)

Vấn danh: Ngày nay được gọi là “chạm ngõ” hay là “dạm” (có nơi gộp chung cả lễ dạm và hỏi cùng nhau và gọi là lễ “dạm hỏi”).

Nạp thái xong rồi cũng là nhà gái đã đồng ý nhận lễ vật, tiếp đó là vấn danh. Nhà trai cùng người làm mối đến nhà gái hỏi tên và họ của cô gái, cả ngày sinh tháng đẻ để xem tuổi, đã có hứa hôn với ai chưa. Nhà gái nào nhận lễ vấn danh thì được xem là đã có nơi có chỗ rồi.

Nhà trai và nhà gái cùng trao đổi “canh thiếp”, đây là tờ giấy màu đỏ có 8 chữ ghi lại thiên can địa chi ngày tháng năm sinh của chàng trai và cô gái.

Nam nữ hai nhà sau khi nhận được “canh thiếp”, thì lập tức thắp hương cúng bái Thần Phật tổ tiên ngay gian nhà chính trong ba ngày.

Nếu trong 3 ngày đó mà xảy ra chuyện không tốt như cãi vã, mất trộm, hỏng đồ đạc, thì có nghĩa đó là điềm báo trai gái không có duyên phận với nhau và không nên kết hôn nữa.

Ngược lại, trong 3 ngày đó đều vui vẻ, không có chuyện gì xấu xảy ra thì có nghĩa là tổ tiên cùng trời đất đều đồng ý cuộc hôn nhân này, cặp trai gái này có duyên với nhau và nên tiến đến hôn nhân. Hai nhà sẽ cùng bàn bạc đến việc hôn nhân của trai gái.

Văn hóa truyền thống vốn kính ngưỡng Trời đất, tin rằng mọi chuyện đều đã có an bài, và nên thuận theo Trời đất mà làm.

Nạp cát: Hai nhà sẽ xem ngày sinh tháng đẻ của đôi trai gái xem có hợp duyên với nhau không. Nếu thấy hợp thì nhà trai sẽ mang lễ đến nhà gái báo tin trai gái hợp nhau để tiến đến hôn nhân.

Nạp chưng: Còn gọi là lễ nạp tệ (“chưng” có nghĩ là chứng, “tệ” có nghĩa là lụa). Nghĩa là nhà trai mang lụa hay vật phẩm quý giá đến nhà gái đảm bảo cho lời hứa hôn chắc chắn. Ngày nay gọi là lễ “ăn hỏi”.

Thỉnh kỳ: Là lễ xin xác định ngày cưới, ngày giờ do bên trai quyết định rồi hỏi lại ý kiến nhà gái.

Thân nghinh: Ngày nay gọi là lễ rước dâu. Đúng ngày giờ đã định nhà trai sẽ đến để rước dâu về.

Giờ thường được chọn là giờ hoàng đạo. Dẫn đầu đám rước dâu của nhà trai là một người có tuổi được dân làng kính trọng đóng vai chủ hôn.

Riêng ở miền Bắc trước đây, tại nhà trai, người ta chờ đợi đám rước dâu về. Một quả lò than đốt hồng đặt trước ngưỡng cửa để chờ cô dâu, với ý nghĩa: lửa hồng sẽ đốt hết những tà ma theo ám ảnh cô dâu và sẽ đốt vía của tất cả những kẻ độc mồm độc miệng đã quở mắng cô dâu ở dọc đường.

Lễ gia tiên: Cô dâu về nhà chồng rồi thì ông bà và cha mẹ chồng sẽ tặng quà cho con dâu.

Sau khi nhà gái đã nhận quả từ nhà trai, mâm quả sẽ được đặt trước bàn thờ gia tiên. Thông thường, tráp trầu cau được đặt chính giữa vì tráp này được mở đầu tiên để dâng lên bàn thờ tổ tiên. Người chủ hôn sẽ nói về ý nghĩa các lễ vật đặt trên bàn thờ. Các lễ vật nói lên công đức giáo dưỡng của cha mẹ, cũng như an bài của trời đất mới có được hôn lễ như hôm nay, trai gái cần phải trân trọng điều này.

Lễ tơ hồng (tức lễ cưới): Gia đình nhà trai bày hương án ra sân. Dùng lễ xôi gà trầu rượu, chủ hôn vào lễ trước, rồi hai vợ chồng vào lễ sau. Trong lễ tơ hồng nhất thiết phải có đọc bài văn tế “ông Tơ bà Nguyệt”.

Người xưa vốn tín ngưỡng văn hóa truyền thống, tin rằng hôn nhân thành được là do “ông Tơ bà Nguyệt” se duyên.

“Ông Tơ bà Nguyệt” dùng sợi chỉ hồng buộc chân hai người nam nữ với nhau tức là đã an bài nhân duyên hai người với nhau, nhờ có an bài này mà hai người mới thành vợ chồng. Từ đó người xưa tin rằng hôn nhân là có trời xanh an bài, việc có “ông mai bà mối” chỉ là làm theo những gì Trời xanh đã định sẵn, vì thế mà cả vợ chồng đều trân quý mối nhân duyên của mình.

Trong lễ tơ hồng nhất thiết phải đọc bài văn tế “ông Tơ bà Nguyệt” nhằm nhắc nhở cho đôi trai gái nhân duyên vợ chồng có được là do Trời đất đã an bài, sống yêu thương lẫn nhau cũng chính là thuận theo an bài của Trời đất.

Lễ hợp cẩn: Sau khi đọc bài văn tế “ông Tơ bà Nguyệt”, cô dâu chú rể vào phòng riêng. Người chủ hôn trải chiếu cho cô dâu chú rể rồi lui ra ngoài, cô dâu chú rể sẽ cùng ăn với nhau bữa cơm đầu tiên.

Chú rể lấy cơi trầu đã tế “ông Tơ bà Nguyệt” trao cho cô dâu gọi là hợp cẩn thành vợ chồng. Rồi vợ lạy chồng hai lạy, chồng đáp lại bằng ba vái để tỏ lòng “vợ chồng tương kính như tân”.

“Nhị hỷ”, “tứ hỷ”: Đây còn gọi là lễ “lại mặt”. Hai ngày sau “lễ tơ hồng”, vợ chồng cùng nhà trai sẽ về thăm cha mẹ vợ gọi là “nhị hỷ”, Nếu nhà vợ ở xa thì có thể 4 ngày sau lễ “tơ hồng” mới về nhà vợ gọi là “tứ hỷ”. Lễ này nhằm giúp cô dâu xoa dịu nỗi buồn xa nhà, nhớ người thân.

Sau đó gia đình nhà gái làm cơm mời chàng rể cùng gia đình nhà trai. Cha mẹ cô dâu sẽ động viên hỏi thăm, chia sẻ lẽ phải, dặn dò vợ chồng cần sống có đạo nghĩa theo văn hóa cổ truyền, theo lời dạy của tổ tiên.

Sau đó nhà trai sẽ ra mắt chào họ hàng bên nhà gái. Lúc này hai gia đình chính thức tới lui thăm hỏi lẫn nhau gọi là “thông gia”.

Đó là toàn bộ những lễ chính trong hôn nhân. Ngày xưa vốn quan niệm hôn nhân là do có duyên phận được trời đất an bài. Vì thế mà vợ chồng xem trọng mối nhân duyên này, tôn trọng lẫn nhau mà có được cuộc sống hạnh phúc. Những cặp vợ chồng nào trân quý nhân duyên có được thì cuộc hôn nhân của họ mới bền chặt.

Xem thêm: Người xưa nói: "Sống chết có số, phú quý do trời", nửa vế sau mới thâm thúy

Bình luận
Mới nhất
Vui lòng để bình luận.

Đọc thêm

Nhắc đến chuyện hôn nhân đại sự, người xưa nói rằng: "Đàn ông xem ngày sinh, đàn bà xem ngày lấy chồng".

Vì sao người xưa nói 'đàn ông xem ngày sinh, đàn bà xem ngày lấy chồng'?
0 Bình luận

Trong niềm tin dân gian thịt vịt thịt ngan không dùng để dâng cúng mà chỉ có gà mới và chủ yếu gà trống.

Vì sao người xưa dặn 'làm cơm cúng đừng dùng thịt vịt thịt ngan thay thịt gà'?
0 Bình luận

Người xưa cho rằng, việc chọn cây cối và trồng trước mộ hay trước cửa nhà đều ảnh hưởng đến phong thủy.

Người xưa dặn: 'Cây âm trước cử gia đình lụi, cây dương trước mộ con cháu suy'
0 Bình luận

PC Right 1 GIF

Bài mới

Người xưa căn dặn: “Dù nghèo cũng chớ ăn lươn trông trăng”, vì sao?

Người xưa căn dặn: “Dù nghèo đến đâu cũng không nên ăn lươn trông trăng”, thoạt nghe ta dễ nghĩ đây chỉ là một kinh nghiệm ăn uống dân gian, nhưng kỳ thực, đó là lời nhắc nhở con cháu về cái gốc làm người, về phẩm giá và sự cẩn trọng trước những thứ dễ dàng mà nguy hiểm.

Hải An
Hải An 4 ngày trước
Người xưa nói: “Mưu sự không có chủ kiến ắt lâm vào cảnh khốn đốn, làm việc không có chuẩn bị tất xôi hỏng bỏng không”

Người xưa có câu: “Mưu sự không có chủ kiến ắt lâm vào cảnh khốn đốn, làm việc không có chuẩn bị tất xôi hỏng bỏng không”. Chỉ một lời răn nhưng là tinh hoa đúc kết từ bao đời, nhấn mạnh hai yếu tố cốt lõi của mọi thành công là chủ kiến và sự chuẩn bị.

Hải An
Hải An 27/07
“Xử đẹp” con riêng của chồng – Câu chuyện nhân văn đáng ngẫm

Ông nắm tay bà, những giọt nước mắt lăn dài trên gương mặt. Ông cám ơn bà nhiều lắm! Cảm ơn cách “xử đẹp” của bà suốt hơn 20 năm qua để gia đình được vẹn tròn, êm ấm.

Hải An
Hải An 26/07
Cổ nhân răn dạy: “Không thể nói chuyện biển cả với con ếch ngồi đáy giếng, chẳng thể bàn về băng tuyết với lũ côn trùng mùa hè”, càng ngẫm càng thấm!

Cổ nhân nói: “Không thể nói chuyện biển cả với con ếch ngồi đáy giếng, chẳng thể bàn về băng tuyết với lũ côn trùng mùa hè”. Chỉ một câu nói đơn giản nhưng ẩn sâu là lời cảnh tỉnh sâu sắc về nhận thức, tầm nhìn và giới hạn tư duy của con người.

Thanh Tú
Thanh Tú 25/07
Cụ Cự “góa con” – Câu chuyện nhân văn xúc động

Nhìn 5 người con của cụ Cự ai cũng giỏi giang, thành đạt, mọi người trong làng ai nấy đều ngưỡng mộ, nghĩ rằng kiểu gì tuổi già của cụ cũng được hưởng phúc.

Hải An
Hải An 24/07
Triết gia Trang Tử nói: “Bi ai lớn nhất của đời người là chết về tâm tưởng, còn cái chết về thể xác chỉ xếp sau”, càng ngẫm càng thấm!

Triết gia Trang Tử nói: “Bi ai lớn nhất của đời người là chết về tâm tưởng, còn cái chết về thể xác chỉ xếp sau". Đó không chỉ là một nhận định triết lý, mà còn là một hồi chuông tỉnh thức giữa cuộc sống hiện đại đang ngày một rối ren, hối hả và rệu rã từ bên trong.

'Con lớn mà không trông em cho bố mẹ' - Câu chuyện đáng suy ngẫm

"Con lớn mà không trông em cho bố mẹ", lời mẹ trách sau khi em tôi ra đi mãi mãi ở tuổi 11. Lời nói ấy như nhát dao xoáy vào tim, theo tôi suốt cả cuộc đời...

Hải An
Hải An 22/07
Người xưa căn dặn: Muốn biết một người có phúc hay không, chỉ cần nhìn “miệng” là biết.

Người xưa nói "Muốn biết một người có phúc hay không, chỉ cần nhìn “miệng” là biết". Nghe tưởng đơn giản, nhưng càng ngẫm càng thấy thâm sâu.

Thanh Tú
Thanh Tú 18/07
Yên ổn tuổi già – Câu chuyện đáng suy ngẫm

Nhìn cảnh con dâu xa lánh mẹ chồng, con trai cũng theo vợ không bênh vực mẹ một lời tôi chán nản xót thương cho tuổi già của chính mình… cả một đời vì con kết quả lại nhận về quả đắng.

Hải An
Hải An 17/07
Người xưa nói: “Có tiền buôn Đông, không tiền buôn Thái”, có nghĩa là gì?

Người xưa nói “Có tiền buôn Đông, không tiền buôn Thái.” Thoạt nghe tưởng là chuyện mua bán vùng miền, nhưng càng ngẫm, càng thấy câu này là lời dạy khôn ngoan về tư duy thích nghi, biết mình biết người và nghệ thuật xoay chuyển nghịch cảnh bằng sự linh hoạt và nhạy bén.

Hải An
Hải An 16/07
Bản di chúc 'tình người' - Câu chuyện nhân văn cảm động

Trước khi mất, vị doanh nhân đã để lại một bản di chúc thấm đẫm tình người: "Tiền của tôi hầu hết đến từ sự tranh giành, tâm kế trên thương trường. Chính họ đã khiến tôi hiểu được nguồn vốn lớn nhất của đời người chính là phẩm hạnh..."

Lão Tử nói: “Đạo của Trời lấy chỗ dư bù chỗ thiếu, đạo của Người lấy chỗ thiếu bù chỗ dư”, càng ngẫm càng thấm!

Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử đã để lại một câu nói tưởng như nhẹ nhàng, nhưng chứa đựng cả một thế giới quan sâu xa và một cái nhìn thấu suốt về nhân tình thế thái: “Đạo của Trời lấy chỗ dư bù chỗ thiếu, đạo của Người lấy chỗ thiếu bù chỗ dư.” Càng đọc, càng ngẫm, càng thấy rõ nỗi buồn của người xưa khi chứng kiến sự chênh lệch giữa quy luật hài hòa của tự nhiên và cách hành xử đầy thiên lệch của con ngư

Thanh Tú
Thanh Tú 14/07
Giá trị của người phụ nữ trong gia đình – Câu chuyện nhân văn đáng ngẫm

Người phụ nữ càng có giá trị, càng không so đo với người trong cùng một mái nhà. Bởi họ hiểu rằng, gia đình chính là để yêu thương, không phải để hơn thua.

Hải An
Hải An 13/07
Lão tử nói: “Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh”, càng ngẫm càng thấm!

Lão Tử nói: “Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh”. Người có lòng thiện cao nhất thì như nước. Nước khéo làm lợi cho muôn loài mà không tranh giành với ai. Một lời dạy giản dị, nhưng ẩn chứa minh triết sâu sắc về cách sống hài hòa với vạn vật, thuận theo tự nhiên, và giữ mình khiêm nhường mà vẫn vững mạnh.

Thanh Tú
Thanh Tú 12/07
Cổ nhân nói “Ngôn nhi đương tri dã, mặc nhi đương diệc tri dã”, càng ngẫm nghĩ, càng thấm thía!

Trong kho tàng triết lý phương Đông, có những câu nói tưởng như ngắn gọn, nhẹ nhàng, nhưng ẩn chứa chiều sâu thâm trầm về nhân sinh. Một trong số đó là câu: “Ngôn nhi đương tri dã, mặc nhi đương diệc tri dã”. Tạm dịch là “Nói đúng lúc là trí, im lặng đúng lúc cũng là trí”.

Hải An
Hải An 11/07
Khóc tấm tức vì thương người nợ tiền – Câu chuyện nhân văn cảm động

Đã bao giờ được trả nợ mà bạn khóc tấm tức vì thương người nợ tiền mình chưa? Mình thì rồi, đó là câu chuyện xảy ra cách đây 2 năm... mỗi lần nhớ lại mình lại càng thấy thương.

Hải An
Hải An 10/07
PC Right 1 GIF
Đề xuất