Người Việt là 1 dân tộc "đại nghĩa" và "chí nhân": Tha chết cho 10 vạn quân Minh 

Sau khi giành đại thắng, thay vì tàn sát quân thù, dân tộc ta đã làm một việc đại nhân đại nghĩa là tha chết cho 10 vạn quân Minh từng đô hộ mình. Không chỉ vậy, chúng ta còn sửa sang đường xá, cấp ngựa, thuyền và lương thực cho họ về nước.

Đỗ Thu Nga
09:00 23/10/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Tội ác của giặc Minh trên đất Việt

Năm 1047, sau khi đánh bại nhà Hồ, quân Minh đã vơ vét mang về phương Bắc đến 235.900 con voi, ngựa, trâu bò; thóc gạo 1,36 triệu thạch, thuyền bè 8.677 chiếc, cùng hơn 2,5 triệu khí giới. Đó là chưa kể số kim loại quý, cùng các mỏ vàng, bạc, ngọc trai, gỗ quý, lâm sản, hồ tiêu, v.v.

Với mục đích thống trị lâu dài, nhà MInh không ngừng xây thành lũy, cầu cống, đường sá. Hàng chục vạn dân đinh từ 16 đến 60 tuổi phải ra công trường làm lao dịch, sống cuộc đời nô lệ, làm việc trong điều kiện khắc khổ, nguy hiểm...

Chính sách thuế khóa nhà Minh áp đặt lên Giao Chỉ rất nặng nề. Trong đó 2 ngạch chính là thuế ruộng đất và thuế công thương nghiệp. Nhà Minh cử nhiều hoạn quan sang nước ta để thu thập thuế, cống gửi về kinh đô. Đồng thời vơ vét chừng ấy nữa cho riêng mình.

nguoi-viet-tung-la-1-dan-toc-dai-nghia-tha-chet-cho-10-van-quan-minh-8
Tội ác của giặc Minh trên đất Việt

Bên cạnh đó, quân Minh còn đàn áp các nghĩa quân kháng Minh với những tội ác như: chém giết, cướp bóc, mổ bụng đàn bà có thai, khủng bố lòng người... Tội ác của giặc Minh đã được Nguyễn Trãi mô tả trong "Bình ngô đại cáo" như sau:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,

Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

Nặng nề những núi phu phen,

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần nhân chịu được?".

Khởi nghĩa Lam Sơn và chuyện Nguyễn Trãi 5 lần vào thành khuyên hàng

Theo sách sử, năm 1418, Lê Lợi lãnh đạo nhân dân tiến hành khởi nghĩa Lam Sơn với mục đích đánh đuổi giặc Minh xâm lược, giành lại độc lập cho nước nhà. Cuộc khởi khởi bắt đầu từ vùng núi Lam Sơn (Thanh Hóa). Trải qua 10 năm, cuộc khởi nghĩa chia làm 3 giai đoạn (1418-1423, 1424-1425, 1426-1427). 

Vào năm 1420, Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân, ra mắt Lê Lợi với cuốn sách "Bình ngô" nêu những kế sách đánh đuổi quân Minh. Nguyễn Trãi được Lê Lợi tin tưởng nên đã vạch kế sách chiến lược đánh quân Minh, từ đó nghĩa quân liên tục giành thắng lợi quan trọng. Đáng chú ý, càng đánh nghĩa quân càng mạnh, hết nam tiến lại ra bắc, tiến quân đến đâu giành thắng lợi đến đó.

nguoi-viet-tung-la-1-dan-toc-dai-nghia-tha-chet-cho-10-van-quan-minh-7
Khởi nghĩa Lam Sơn

Trước tình hình này, vào tháng 9/1426, nhà Minh tiến cử Vương Thông làm tổng binh đưa 5 vạn viện binh sang hợp với hơn 5 vạn quân ở Giao Chỉ thành 10 vạn, tiến đánh nghĩa quân Lam Sơn. Quân Minh bị nghĩa quân chặn ở Tốt Động - Chúc Sơn. Vương Thông thua trận phải tháo chạy vào thành Đông Quan (tức thành Thăng Long) cố thủ rồi cho người về nước xin viện binh.

Trong thời gian này, Nguyễn Trãi đã nhiều lần viết thư cho Vương Thông đề nghị nghị hòa nhưng kẻ này chỉ đồng ý nhằm kéo dài thời gian chờ viện binh đến. Mặt khác lại cho đào hào cắm chông phòng thủ. Nguyễn Trãi biết được điều này nên đã cho quân vây chặt thành. Đồng thời gửi thư cho Vương Thông nói rõ, nếu muốn hàng thì quân Minh phải ra hàng ngay.

Biên quân Minh không hàng và vẫn đang ôm hy vọng chờ viện binh, Nguyễn Trãi bèn tính kế đánh 15 vạn viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thanh. 10 vạn quân của Liễu Thăng đến ải Chi Lăng thì bị phục binh xông ra đánh úp khiến quân tan rã, Liễu Thăng tử trận. 

Mộc Thanh đưa 5 vạn binh đóng ở biên giới, chần chừ chưa vội tiến quân để nghe ngóng tình hình của Liễu Thăng. Quân Lam Sơn biết chuyện đã đưa một số tù binh mang sắc thư, phù ấn của Liễu Thăng đến báo Mộc Thanh biết Liễu Thăng đã tử trận. Cánh quân của Mộc Thanh hay tin thì bàng hoàng, phút chốc tan vỡ quay đầu về nước. Quân Lam Sơn thừa thắng đuổi theo khiến hàng vạn quân Minh bị tiêu diệt.

Vẫn với chủ trương đánh giặc không dùng đao kiếm, Nguyễn Trãi không chỉ nhiều lần viết thư khuyên nhủ mà còn 5 lần 1 mình vào thành Đông Quan nhằm phân tích tình hình, nhắc các tướng đầu hàng. Đồng thời cũng đảm bảo sẽ cung cấp đủ ngựa, thuyền, lương thực để toàn bộ 10 vạn quân Minh được an toàn trở về nước.

nguoi-viet-tung-la-1-dan-toc-dai-nghia-tha-chet-cho-10-van-quan-minh-6
Nguyễn Trãi 5 lần 1 mình vào thành khuyên Vương Thông đầu hàng

Lúc này, quân Minh cũng biết rõ rằng, trong thời gian đô hộ nước ta, chúng đã gây ra nhiều nợ máu với nhân dân. Việc tha thứ cho 10 vạn quân gây bao tội ác là điều không thể, nhất là các tướng chỉ huy. Vì thế mà tướng nhà Minh đều liều chết quyết cố thủ trong thành không hàng.

Vương Thông một mặt trả lời xem xét giảng hòa, mặt khác vẫn cho quân đi dò la tình hình. Quân Minh tìm ra điểm yếu liền đem quân bất ngờ vượt thành để đánh phá. Song quân Lam Sơn đã chuẩn bị mọi tình huống nên giả vờ bỏ chạy. Quân Minh thấy vậy hiếu chiến xông lên và rơi vào trận địa mai phục của ta. Vương Thông bị ngã ngựa suýt bị bắt, phải chạy tháo vào thành. 

Vương Thông liền viết thư gửi về "thiên triều" nói chuyện giảng hòa với nghĩa quân Lam Sơn. Trong thư có đoạn: "Chớ tham đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm, giả sử dùng quân được như số quân đi đánh đầu, lại được 6,7,8 đại tướng như Trương Phụ thì mới có thể đánh được, tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được",Nguyễn Trãi dùng nhân nghĩa, kiên trì thuyết phục quân Minh đầu hàng, đúng như những gì ông viết trong “Bình Ngô đại cáo”:

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công

Trước sự kiên nhẫn cùng sự chân thành của Nguyễn Trãi, lại đang lâm cảnh đường cùng, Vương Thông đồng ý nghị hòa. Ông ta liền đưa một số tướng làm con tin giao cho quân Lam Sơn. Người dân cùng các tướng sĩ đến xem đều đề nghị xin cho giết bọn chúng, nhưng Lê Lợi đáp rằng: "Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, nhưng không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng, mà mình lại giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng. Nếu cốt để hả nỗi căm giận trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử xanh ghi chép tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao?".

Hội thề Đông Quan và sự nhân nghĩa của người Việt

Ngày 22/11/1427, toàn bộ quan Minh ra hàng, các thủ lĩnh hai bên tham gia hội thề ở phía Nam thành Đông Quan, ngay bờ sông Nhị Hà (nay sông Hồng). Rất nhiều người đã nhắc đến tội ác của quân Minh với chủ tướng Lê Lợi. Song ngài đáp rằng: "Việc dùng binh lấy sự toàn quân là hơn cả. Nay hãy để cho lũ Vương Thông về nói với vua Minh, trả lại đất cho nước ta, không còn trở lại xâm lấn, thì ta còn cầu gì hơn nữa, hà tất phải giết hết, để kết mối thù với nước lớn.

Tại Hội thề Đông Quan, Vương Thông đại diện cho các tướng sĩ nhà Minh đọc "bài văn hội thề", thề rằng sẽ ngừng chiến rút quân về nước, việc rút quân về nước hoàn toàn tất trong 5 tháng, trên đường về không thực hiện cướp bóc sách nhiễu dân chúng, không tái xâm lược nước ta.

Nghĩa quân Lam Sơn cũng hứa sẽ cung cấp đầy đủ ngựa, thuyền, lương thực để 10 vạn quân Minh rút về nước.

Kết thúc hội thề các tướng nhà Minh phải cúi đầu thực hiện đúng các cam kết mà nghĩa quân Lam Sơn đặt ra. Quân “thiên triều” cảm kích xấu hổ chảy nước mắt, dù nhục nhã nhưng phải tâm phục khẩu phục.

nguoi-viet-tung-la-1-dan-toc-dai-nghia-tha-chet-cho-10-van-quan-minh-4
Tranh vẽ hội thề Đông Quan

Lê Lợi còn lệnh cho các lộ ở Bắc Giang, Lạng Sơn tu sửa đường xá để quân Minh rút về nước. Quân Lam Sơn cung cấp 500 thuyền và hơn 2 vạn ngựa cho quân Minh sử dụng, cũng như đầy đủ lương thực. Các tướng nhà Minh trước khi về đã vô cùng cảm kích đến trước dinh Bồ Đề lạy tạ.

“Đại Việt Sử ký Toàn thư” ghi chép rằng: “Tất cả đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về. Bọn Phương Chính vừa xúc động vừa hổ thẹn đến rơi nước mắt.”

Vương Thông nói chuyện với Lê Lợi suốt đêm rồi mới về nước, Lê Lợi cho đem trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ cùng các lễ vật tiễn chân rất hậu.

Về sự việc này Nguyễn Trãi có mô tả trong “Bình Ngô đại cáo” như sau:

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,

Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,

Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Chẳng những mưu kế kì diệu

Cũng là chưa thấy xưa nay.

“Minh sử kỷ sự bản mạt” ghi chép rằng: “Vương Thông lực yếu mà phải xin hoà, Liễu Thăng lại sang rồi bị thua chết. Sau đó lại xuống chiếu sai sứ sang giao hảo và rút quân về, nhục nhã thực bằng Tân, Trịnh hội thề dưới chân thành, hổ thẹn ngang với Kính Đường cắt đất giảng hoà vậy”

Xem thêm: Nể tài "đánh giặc" bằng bút của Nguyễn Trãi, từng 5 lần thân chinh vào thành dụ địch hàng

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận