Vua xuống chiếu xin lỗi đại thần và bá tánh, chuyện tưởng như đùa này từng 3 lần xảy ra trong sử Việt
Việc bậc đế vương thừa nhận sai lầm của bản thân, công khai xin lỗi đại thần và bá tánh là chuyện vô cùng hiếm có.
Khi xưa, dưới thời phong kiến, vua được coi là "thiên tử" - tức con trời, là đấng tối thượng có quyền cao hơn tất thảy. Có thể nói, vua hiếm khi sai, bởi ý vua chính là ý trời. Người ta thường nghe chuyện quan lại xin lỗi nhà vua, chứ chuyện vua công khai xuống chiếu nhận lỗi lầm quả là chuyện hiếm có. Dù vậy, trên thực tế vẫn có những vị vua sẵn sàng nhìn nhận sai lầm của mình, xin lỗi quan đại thần và bá tánh nhân dân.
Lý Cao Tông
Lý Cao Tông (李高宗, 1173-1210) là vị hoàng đế thứ 7 của nhà Lý, lên ngôi năm 3 tuổi và trị vì suốt 35 năm. Thời kỳ của ông đánh dấu sự suy tàn khó cứu vãn của nhà Lý, sử sách gọi là Cao Tông Trung Suy (高宗中衰).
Trong giai đoạn đầu, nhờ có thái phó Tô Hiến Thành ra sức phò tá, đất nước yên ổn, nhân dân an lạc. Thế nhưng, sau khi thái phó qua đời, vua Lý Cao Tông như con thuyền mất lái. Vốn dĩ, Cao Tông là một người thông minh, ngoan lành, nhưng khi lên ngôi lại sinh ra đam mê săn bắn, chính sự pháp luật không rõ ràng. Ông vơ vét của dân để xây nhiều cung điện, bắt trăm học xây dựng phục dịch, trộm cướp hoành hành, nhân dân lầm than.
Trẻ người non dạ, lại không còn người can gián, vua nghe theo gian thần mà ngày càng ăn chơi sa đọa. Năm 1189, vua Lý Cao Tông du hành khắp nơi, đi đến đâu mà có thần linh lại lệnh xây dựng đền miếu. Năm 1197, vua cho dựng cung Nghênh Thiềm, 6 năm sau lại cho xây hàng loạt cung điện.
Tương truyền rằng, khi đang xây dở gác Kinh Thiên, có chim khách bay đến làm tổ. Cao Đường Long thấy vậy, cho là điềm báo sắp có vương tộc xuất hiện, thay thế triều Lý bèn khuyên can vua: "Trước cốt sửa đức, sau hãy khởi công mới phải". Vua nghe vậy, đem việc này đến hỏi Phạm Bỉnh Di, là hoạn quan làm tướng thời nhà Lý. Thấy vậy, Bỉnh Di đáp: "Cái gác hoàn thành mà chim khách đến làm tổ, lại sinh ra chim con, vậy là trời cho bệ hạ cái điềm tốt giữ được trăm đời". Cao Tông nghe vậy rất bằng lòng, lại bắt dân phu xây gác. Về việc này, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: "Vua chơi bời không điều độ, hình chính không rõ ràng, giặc cướp như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy kém...".
Sau này, trước khi qua đời, vua Lý Cao Tông đã nhận ra sai lầm của mình. Năm 1207, vua nhìn cảnh giặc cướp hoành dân, bá tánh lầm than nên hối lỗi, xuống chiếu tự nhận lỗi lầm. Về bản chiếu, Đại Việt sử lược có chép lai: "Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trùng, không biết được cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời bọn tiểu nhân mà gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thì trẫm còn biết dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi, cùng dân đổi mới. Ai có ruộng đất, sản nghiệp bị sung công sẽ được hoàn lại".
Có thể nói, đây là lần đầu tiên có một vị vua trong lịch sử phong kiến Việt Nam thừa nhận lỗi lầm với người dân. Tiếc rằng, sau khi nhận ra sai lầm, ông chỉ làm vua được thêm 3 năm thì qua đời. Nhà Lý tiếp tục suy vong dưới thời vua Lý Huệ Tông, tới năm 1225 thì sụp đổ.
Lê Thánh Tông xin lỗi bề tôi
Lê Thánh Tông (黎聖宗, 1442 – 1497) là hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lệ, trị vì 37 năm - thời gian lâu nhất thời Hậu Lê, giai đoạn Lê sơ. Đây là thời điểm này đánh dấu sự hưng thị của nhà Hậu Lê nói riêng và chế độ phong kiến Việt Nam, sử sách gọi là Hồng Đức Thịnh Thế.
Ngay từ khi còn nhỏ, Lê Thánh Tông đã là một người thông minh, ham học, ưa người hiền, bản thân ông cũng có tính cầu thị. Đã có lần, dù làm vua, nhưng Thánh Tông vẫn không ngần ngại mà xin lỗi bề tôi.
Đại Việt sử ký toàn thư có ghi về việc này: Quốc Tử Giám tửu Nguyễn Bá Ký dâng sớ trách vua, nói rằng vua làm văn chỉ chuộng lối học phù hoa vô dụng mà không màng kinh sử. Khi nhận được sớ, Lê Thánh Tông không thẹn mà đáp lại:
"Nếu ta chuộng văn hoa, không lấy gốc kinh, sử thì còn sách nào nữa? Ta tự xét mình, xét lời ngươi nói thì trong bốn chữ 'phù hoa vô dụng' kia, thực đã gồm cả lòng trung rồi. Thế mà ta lại làm văn mà biện lại, thì ta thực có lỗi. Lúc ấy, người đã kịp thời can ngăn, chẳng vì thế mà giữ ý". Từ đó, Nguyễn Bá Ký rất được vua tin tưởng, coi trọng.
Năm 1467, thời điểm đó vùng Đông Bắc có loạn, tống binh Lê Hối dẹp loạn mãi không được. Vua sai Khuất đả đem quân tới trợ giúp, thế nhưng cả hai đều bại trận. Khi pháp ti đem hai vị tướng này ra xét xử, quan Hình bộ thượng thư viện dẫ tới lệ bát nghị, ý là tha bổng cho hai người này.
Thấy vậy, Đô ngự sử Trần Xác vồn là người chính trực, nắm luật lệ rất chắc, thấy vậy mà nên lên tiếng tán thành. Ông nói rằng: "Xưa nay chỉ có tội đại ác và phản nghịch là không được hưởng lệ bát nghị, chưa từng thấy quan phạm tội thường mà không cho hưởng lệ này".
Vua Lê Thánh Tông biết tin, dụ rằng: "Quân pháp chỉ có một chứ không có hai. Nói như lời của Xác chỉ là biện bác, mê hoặc người mà thôi, phải nên trị Xác về tội này mới được". Thế nhưng, sau này ông lại nhận ra sai lầm của mình, ra chỉ dụ thừa nhận: "Ta vu oan cho ngươi là kẻ biện bác để mê hoặc người, đó là ta lỡ lời. Nay, người có mưu kế gì hay cứ nói với ta, ấy cũng như cơn mưa ngọt đến khi trời nắng hạn, như có con thuyền đến lúc ta cần qua sông. Người hãy kính nhớ lấy".
Vốn dĩ vua nhận ra Trần Xác là người thẳng thắn, dám nói ra những lời can gián vua khi cần, không sợ nguy hiểm. Vì thế, Lê Thánh Tông rất trọng dụng, và đã thừa nhận sai lầm của mình.
Quang Trung nhận sai lầm
Tết Kỷ Dậu năm 1789, quân Tây Sơn tấn công đánh bại quân Thanh xâm lược ở Thăng Long. Lúc này, vua Quang Trung (miếu hiệu Tây Sơn Thái Tổ 西山太祖) nhận được "đơn kiện" của bá tánh nơi đây, nói rằng bia Văn Miếu bị đánh đổ ngổn ngang. Đơn kiện này được viết dưới dạng một bài thơ như sau:
"Bia Tiến sĩ vô can vô tội
Mà vạ lây vì nỗi cháy thành
Bia thì đạp đổ tung hoành
Nhà bia thì đốt tan tành ra tro
Một nền văn hiến lâu dài
Tiếc thay chưa được đón Ngài ngự thăm".
Bia thì đạp đổ tung hoành Nhà bia thì đốt tan tành ra tro Một nền văn hiến lâu dài Tiếc thay chưa được đón Ngài ngự thăm".
Nhận được tờ sớ, vua Quang Trung không hề giận dữ, trái lại thẳng thắn thừa nhận lỗi lầm. Ông phê rằng:
"Ta không trách nông phu
Ta chỉ gờm thầy Nho
Cả gan to mật, dám kêu Vua bằng Ngài!
Thầy Nho là ai? Sắc cho Bộ hỏi, dân khai".
Tất nhiên, vua cũng không hạch hỏi tiếp, mà chỉ tập trung vào điều cốt yếu cần giải quyết. Vua cho thánh chỉ cùng châu khuyên vào tờ đơn Nôm, về việc này các nhà sử học đánh giá rất cao:
"Thôi! Thôi! Thôi! Việc đã rồi
Trăm điều hãy cứ trách bồi vào ta!
Nay mai dọn lại nước nhà
Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian
Cơ đồ họ Trịnh đã tan?
Chớ đổ Trịnh Khải mà oan muôn đời".
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận