Vì sao giới sĩ tử công khai không chấp nhận vua Đồng Khánh?

Lòng dân khi ấy hướng cả về vua Hàm Nghi - biểu tượng của phong trào Cần Vương kháng Pháp. Bởi vậy, việc các sĩ tử không chấp nhận vua Đồng Khánh cũng là chuyện dễ hiểu.

Đỗ Thu Nga
09:00 19/10/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Thân thế của vua Đồng Khánh

Vua Đồng Khánh (19 tháng 2 năm 1864 – 28 tháng 1 năm 1889), tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Thị và Nguyễn Phúc Ưng Đường, lên ngôi lấy tên là Nguyễn Phúc Biện. Ông là vị hoàng đế thứ chín của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, tại vị từ năm 1885 đến 1889.

Ông là con trai cả của Kiên quốc công Nguyễn Phúc Hồng Cai (sau tôn phong làm Thuần Nghị Kiên Thái vương, hoàng tử thứ 26 của vua Thiệu Trị) với bà Chánh phi Bùi Thị Thanh, tên khai sinh là Nguyễn Phúc Ưng Thị. Vì bác của ông là vua Tự Đức mắc bệnh không thể có con nên buộc lòng phải chọn ra các trẻ trong tông thất làm con nuôi để dự phòng sau này có người kế vị. Năm 1865, Ưng Thị mới có hai tuổi được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Nhất giai Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc dạy bảo, đổi tên thành Ưng Đường (về sau khi lên ngôi dùng tên trong kim sách là Biện).

vi-sao-gioi-si-tu-cong-khai-khong-chap-nhan-vua-dong-khanh-0
Chân dung vua Đồng Khánh

Ngày 11 tháng 1 năm 1883, vua Tự Đức phong cho ông làm Hoàng tử, Kiên Giang quận công.[7] Trong số các con của Kiên Thái vương sau này có tới ba người được làm vua, là Đồng Khánh, Kiến Phúc và Hàm Nghi, vì thế có câu rằng:

Một nhà sanh đặng ba vua

Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài.

Tuy nhiên, ông dường như không được vua Tự Đức đánh giá cao mà ngược lại, trong số 3 người con nuôi, Tự Đức thương quý nhất là Ưng Đăng (Phúc Kiến). Vị hoàng tử này cũng là em ruột của Ưng Thị. Trong tờ di chúc nhà vua có nhắc về ông như sau: "Ưng Kỷ người yếu hay ốm, có tâm tật, học chưa thông mà kiêu ngạo, hay bới việc riêng của người cho lạm thẳng, đều không phải là tư chất thuần lương theo lời phải, sợ bọn ngươi khó lấy lời nói can được".

Ngày 19 tháng 7 năm 1883 (16 tháng 6 âm lịch), vua Tự Đức băng hà ở tuổi 54. Triều đình nhà Nguyễn tôn em của vua Kiến Phúc là Nguyễn Phúc Ưng Lịch lên ngôi, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Thông thường, vua mới lên ngôi vào nửa cuối năm thì đầu năm mới (1885) mới tính là năm Hàm Nghi thứ nhất (Hàm Nghi nguyên niên).

Vào rạng sáng ngày 6/7/1885 (tháng 5, năm Hàm Nghi thứ nhất), quân triều đình tấn công phủ đầu Pháp ở đồn Mang Cá, tuy nhiên cuộc tấn công thất bại. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, rồi rút lên vùng rừng núi Tây Quảng Bình, ban dụ Cần Vương, tổ chức kháng chiến.

Nguyễn Phúc Ưng Đường đăng cơ thế nào?

Theo báo Thanh Niên, sau khi vua Hàm Nghi rời kinh thành lên chiến khu Tân Sở tổ chức kháng chiến, người Pháp bèn dựng lên một người làm Giám quốc. Trong sách Đại Nam thực lục (tập 9, Đệ lục kỷ, Quyển 1) chép: “Bấy giờ chỉ còn Nguyễn Văn Tường lưu ở ở Kinh […] rồi xin cho Thọ Xuân vương là Miên Định tạm coi việc nước” – ông Nguyễn Phúc Miên Định là con vua Minh Mạng (vai ông của vua Hàm Nghi) khi đó 75 tuổi, là người đứng đầu Tông nhơn phủ - theo Nguyễn Phúc tộc thế phả.

Mặt khác, người Pháp lại gây sức ép với bà Thái hoàng Thái hậu Từ Dũ (bà nội vua Hàm Nghi) để phế truất nhà vua. Vào ngày 19/9/1885, lập anh ruột của vua Hàm Nghi là Nguyễn Phúc Ưng Đường lên ngôi (tức vua Đồng Khánh).

vi-sao-gioi-si-tu-cong-khai-khong-chap-nhan-vua-dong-khanh-9
Vua Hàm Nghi lúc mới đăng cơ

Theo lệ thường thì đầu năm 1886 mới tính là năm Đồng Khánh thứ nhất (Đồng Khánh nguyên niên) nhưng từ khi vua Hàm Nghi lên rừng ban dụ Cần Vương kêu gọi kháng chiến, nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ thì người Pháp gây áp lực lên triều đình Huế, yêu cầu dùng niên hiệu Đồng Khánh trên các văn bản giấy tờ từ năm 1885. 

Trong sách Đại Nam thực lục có chép rằng: "Năm Ất Dậu, Hàm Nghi nguyên niên [1885], mùa thu, tháng 8 (tháng ấy và tháng 9 sau vẫn chép niên hiệu Hàm Nghi. Từ mồng 1 tháng 10 trở về sau, đổi làm năm Đồng Khánh, Ất Dậu)…” – phần còn lại của năm 1885 dùng niên hiệu Đồng Khánh Ất Dậu để phân biệt với năm Đồng Khánh thứ nhất bắt đầu từ năm 1886.

Nhiều giấy tờ của triều Nguyễn, vua Hàm Nghi chỉ là vua trong thời gian gần 1 năm (từ tháng 8/1884 đến tháng 7/1885). Và trên các giấy tờ về thời kỳ trị vì của vua chỉ có "Hàm Nghi nguyên niên". Song trên thực tế, dù Pháp dựng vua Đồng Khánh lên ngôi thì lòng dân vẫn hướng về vua Hàm Nghi - biểu tượng của phong trào Cần Vương chống Pháp.

Vì sao các sĩ tử công khai không chấp nhận vua Đồng Khánh?

Trong bài viết Khảo sát một tài liệu lịch sử quý giá – có hay không niên hiệu “Hàm Nghi năm thứ VI”ở Tập san Sử Địa số 26 (tháng 1 - 3 năm 1974), tác giả Nguyễn Quang Tô cho biết: “Theo thể lệ ngày xưa cứ mỗi 3 năm thì mở một khoa thi Hương ở các trường tỉnh, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

Năm 1885 - chính là năm có khoa thi, nhưng vì Kinh thành có biến động, vua Hàm Nghi phải xuất bôn, nên khoa thi năm đó phải bỏ, như trường hợp ở trường Nghệ - Tĩnh... Qua năm Đồng Khánh nhị niên (1886), triều Đồng Khánh mới mở cho tổ chức lại khoa thi, gọi là ân khoa.

Trong khoa thi Hương tại trường thi Hương Nghệ - Tĩnh một số đông sĩ tử khi viết ngày tháng (niên hiệu) vào quyển thi lại không để "Đồng Khánh nhị niên" mà viết "Hàm Nghi tam niên". Điều này có thể thấy, một số sĩ tử đã không công nhận Đồng Khánh là vua triều Nguyễn, mà theo lập trường giữ quan điểm: Hàm Nghi mới là vị vua duy nhất của thần dân Việt. Và hiển nhiên chẳng những họ bị hỏng thi, mà còn bị trị tội là “phản loạn”…

vi-sao-gioi-si-tu-cong-khai-khong-chap-nhan-vua-dong-khanh-7
Nguyên văn tài liệu ghi “Hàm Nghi lục niên” trong Tập san Sử Địa số 26

Chỗ này, có thể tác giả có chút nhầm lẫn, vì theo lý giải ở phía trên, năm 1886 mới tính là năm Đồng Khánh nguyên niên, và nếu tính theo niên hiệu Hàm Nghi thì cũng mới là Hàm Nghi nhị niên. Việc này, sách Đại Nam thực lục (tập 9, Đệ lục kỷ, quyển IV) cũng chép: Thực lục về Cảnh Tông Thuần hoàng đế. Bính Tuất, Đồng Khánh năm thứ nhất [1886].

Cũng trong bài viết đã nêu trong Tập san Sử Địa số 26, tác giả Nguyễn Quang Tô còn đưa ra ảnh chụp nguyên bản của một văn bằng được cấp tại Bắc kỳ có ghi năm cấp là “Hàm Nghi lục niên” (năm Hàm Nghi thứ 6).

Theo chú thích của tác giả, đây là đạo bằng được cấp bởi sĩ quan Cần Vương, nên việc dùng niên hiệu của vua Hàm Nghi - thủ lĩnh tinh thần của phong trào Cần Vương là điều dễ hiểu, nhưng “Hàm Nghi lục niên” phải ở vào khoảng năm 1889 - 1890. Tuy nhiên cuối tháng 12/1888, vua Hàm Nghi đã bị Pháp đày sang Bắc Phi, tức là cả khi nhà vua đã bị đi đày biệt xứ, triều Nguyễn đã lập đến vị vua thứ hai thay ông (tháng 1.1889 vua Đồng Khánh cũng chết vì bệnh), các nghĩa sĩ Cần Vương vẫn coi vua Hàm Nghi là vị vua của nước Việt.

(Theo Wiki, báo Thanh Niên)

Xem thêm: Ly kỳ câu chuyện cô gái trẻ người Pháp tự xưng là hậu duệ đời thứ 5 của vua Hàm Nghi

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận