Điều ít biết về "Tứ nguyệt tam Vương" - thời kỳ tối tăm nhất của triều đại nhà Nguyễn
Nhất giang lưỡng quốc, ngôn nan thuyết/Tứ nguyệt tam Vương, triệu bất thường" là câu đối nói về cuộc khủng hoảng chính trị tại triều đình Huế do hai quan phụ chính là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường gây ra.
Nhất giang lưỡng quốc, ngôn nan thuyết
Tứ nguyệt tam Vương, triệu bất thường
Có nghĩa là:
Một sông hai nước, khôn đường nói
Bốn tháng ba vua, điềm chẳng lành
Tương truyền, tác giả của câu đối trên là Ông Ích Khiêm (1832-1884). Ông là vị tướng tài, từng làm Tiểu phủ sứ, Tán lý quân thứ Tuyên Quang, tước Kiên Dũng Nam. Câu đối trên được truyền tụng tại kinh đô Huế sau khi Tự Đức 1847 - 1883) băng hà, nói về 1 trong những sự kiện phức tạp nhất trong lịch sử nhà Nguyễn, tức là trong vòng 4 tháng mà có đến 3 vị vua liên tiếp lên ngôi.
Lúc nhỏ, vua Tự Đức bị bệnh đậu mùa nên không thể sinh con. Ông có tới 300 người vợ, phi tần nhưng vì không có con được mà trong triều đình thì lại cần phải có người nối dõi nên ông đã nhận 3 người con của hai em trai làm con nuôi.
Trong 3 ngờ con nuôi, người làm ông vừa lòng nhất là Ưng Đăng. Nhưng vì, thứ nhất Ưng Đăng còn nhỏ tuổi, thứ 2 Ưng Chân là người con lớn nhất nên ông buộc lòng truyền ngôi báu lại cho trưởng tử này.
Giai đoạn bi kịch của lịch sử bắt đầu từ thời điểm vua Tự Đức băng hà. Trong những câu di chiếu của ông đã thể hiện rõ thái độ không ưng ú đối với tình hình của Ưng Chân. Ông từng viết: "Ưng Chân lớn tuổi nhất, từ lâu đã đến tuổi trưởng thành, tuy nhiên, mắt hơi có tật, dù xưa nay vẫn giấu kín, sợ sau này không thấy sáng, tính lại hiếu dâm, vì tâm tính rất xấu, không chắc đảm đương nổi việc lớn. Nhưng đất nước cần có vua lớn tuổi. Trong thời thế khó khăn này không dùng Ưng Chân thì dùng ai?".
Trong thời kỳ đó, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường và Trần Tiễn Thành là những quân Phụ chính giữ vai trò quan trọng trong triều đình. Họ dâng sớ lên nhà vua xin bỏ đi mấy đoạn viết về tính tình không tốt của Ưng Chân.
Thế nhưng vua Tự Đức kiên quyết bảo rằng "phải giữ lại câu đó để nhắc người kế vị phải tự răn mình, tu tỉnh". Từ đó triều đình nhà Nguyễn rơi vào thời kỳ tăm tối nhất với sự kiện "Tứ nguyệt tam vương". Vậy tam vương này là những ai?
Vua Dực Đức ở ngôi 3 ngày
Ngày 17/7/1883, vua Tự Đức qua đời tại điện Càn Thành. Theo di chiếu, Ưng Chân là con lớn vào chịu tang, được coi là người kế vị, lấy niên hiệu là Dục Đức.
Vua Dực Đức (1852 - 1883) tên thật Nguyễn Phúc Ưng Ái, sai được vua Tự Đức nhận làm con nuôi thì đổi tên thành Nguyễn Phúc Ưng Chân. Ông là hoàng đến thứ 5 của nhà Nguyễn.
Ông là con thứ 2 của Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Năm 17 tuổi (1869) được bác ruột là vua Tự Đức chọn làm 1 trong 3 người con nuôi, đặt tên Ưng Chân, giao Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên nuôi dưỡng, dạy dỗ.
Trước khi mất, vua Tự Đức có viết mấy lời quá chân thực về Ưng Chân nên các quan phụ chính là Thuyết, Tường Thành đã dâng sớ xin vua bỏ mấy đoạn. Nhưng vua từ chối.
Sau khi vua băng hà, Ưng Chân lên kế vị vào ngày 19/7/1883. Ông khóc lạy tờ cố mệnh ở điện Cần Chánh, sau đó vào điện Hoàng Phước Chịu tang. Ông đem nhiều người thân cận vào làm hộ vệ trong điện Hoàng Phước và các sở Quang Minh.
Những người này tự do ra vào cung điện, trong khi các tờ tâu trình khẩn cấp, cơ mật từ các viên đại thần từ các tỉnh dâng lên để trong điện một đêm vẫn chưa giao ra. Lại trong khi làm lễ cúng tiên đế mà Tự Đức vẫn mặc áo sắc lục cũ hoặc sai chế ngay các đồ dùng riêng. Đây là những hành động bị cấm trong thời gian để tang khiến các phụ chính càng ghét thêm.
Vốn là người có tật ở mắt, lại mắc phải một số trọng tội trước đó nên lúc làm lễ đăng cơ, vua Dục Đức đã sai Trần Tiễn Thành đọc lướt một số đoạn "không cần thiết" về mình.
Thấy di chiếu được đọc qua, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đứng sát bên đã tiến lại, hạch sách Trần Tiễn Thành rồi sai Nguyễn Trọng Hợp đọc đúng nguyên văn.
Sau khi đọc xong di chiếu, Thuyết và Tường đã "hỏi tội" Thành về làm giả di chiếu. Đúng 3 ngày sau, 2 phụ chính đại thần dâng biểu lên Thái Hoàng Thái hậu Từ Dũ, vạch ra 4 tội của nhà vua: Muốn sửa di chiếu của vua cha; Có đại tang mà mặc áo màu; Tự tiện đưa một giáo sĩ vào Hoàng thành và Thông dâm với nhiều cung nữ của vua.
Trước sức ép của hai vị đại thần quyền lực, bà Từ Dũ không thể làm gì khác ngoài việc buộc phải đồng ý phế ngôi của Dục Đức. Chỉ sau 3 ngày, chưa kịp đặt niên hiệu, Dục Đức đã trở thành trọng tội.
Sau khi bị truất ngôi, ông bị quản thúc tại Dúc Đức Đường rồi hôm sau bị tuyên án, giam ở Thái y viện. Tại đây, một phòng kín được xây lên, ông bị bỏ đói và không cho uống nước. Thương tình vua cũ, lính canh thỉnh thoảng nhét cho ít cơm nắm cùng áo rách đã nhúng nước để vua vắt ra uống. Sống trong cảnh khổ cực thoi thóp không đến 1 tháng thì qua đời. Người cai ngục khai rằng ông tuyệt thực mà chết.
Song theo sử gia Phạm Văn Sơn, khi vua đau đớn, đói khát thì Thuyết và Tường đã sai người giết vua bằng thuốc độc vì sợ để lâu sinh biến. Khi ông mất, hai người lính bó thi thể trong chiếu mang chôn. Nhưng đến đầu làng An Cựu, ngoại thành Huế thì xác vua rơi bên khe nước nông. Tin đây là nơi yên nghỉ vua tự chọn, người ta đào đất chôn ông qua loa.
Nấm mồ bên cạnh khe nước không ai chăm sóc nên lâu ngày cũng nhanh chóng lụi tàn. Về sau, con trai ông là vua Thành Thái lên ngôi đã lần theo dấu vết và lời kể tìm lại mộ cha, truy tôn ông làm Cung Tôn Huệ Hoàng đế.
Vua Hiệp Hòa tại vị được 4 tháng 10 ngày
Vua Hiệp Hòa (1847 - 1883) tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Dật, sau đổi thành Nguyễn Phúc Thăng. Ông là vị vua thứ 6 của nhà Nguyễn. Ông là con thứ 29 và cũng là con út của vua Thiệu Trị và Tam giai Thụy tần Trương Thị Thận.
Năm 1883, vua Tự Đức qua đời, theo di nguyện, Ưng Chân (vua Dục Đức) lên ngôi kế vị. Nhưng làm vua được 3 ngày thì bị phế và chết rất thê thảm.
Năm 1865, Hồng Dật được phong làm Văn Lãng Công. Năm 1879 được phong làm Lãng Quốc Công. Khi vua Dục Đức bị phế, Thái Hoàng Thái hậu Từ Dũ đồng ý cho 2 phụ chính là Thuyết và Tường đi rước Lãng Quốc Công vào đại nội làm vua.
Theo Phạm Khắc Hòe, nguyên là Ngự tiền Văn phòng Đổng lý của Đại Bảo, khi đình thần ra rước đón, Hồng Dật đã khóc "tôi là con út của tiên đế, tư chất tầm thường, không dám nhận ngôi vua". Ông cũng hết lời năn nỉ để không phải vào cung nhưng vẫn không thành. Hai ngày sau, Hồng Dật lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.
Khi lên ngôi, vua Hiệp Hòa đã 36 tuổi, ông đủ trưởng thành để nhận thấy sự chuyên quyền của các phụ chính. Ông không cam tâm làm bù nhìn. Vào năm 1883, vau buộc phải ký hiệp định Harmand với Pháp sau khi Pháp chiếm Thuận An.
Nhân cơ hội này, Hiệp Hòa muốn tìm kiếm sự giúp đỡ từ Pháp để loại bỏ quan phụ chính. Hiệp Hòa đã bàn bạc với hai người mình tin tưởng nhất là Hồng Sâm, con trai Tuy Lý Vương và Hồng Phi, con trai Tùng Thiện Vương. Ông giao cho Tuy Lý Vương sang cầu viện Pháp.
Trong Hiệp ước đã ký, mặc dù Pháp đưa ra nhiều điều khoản quá đáng như nước Nam phải chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và Pháp có quyền kiểm soát quan hệ của nước Nam với các quốc gia khác cùng nhiều điều khoản nặng nề khác nữa. Nhưng vua Hiệp Hòa vẫn đồng ý ký, việc này làm cho uy tín của ông trong triều đình cũng như lòng tin của người dân dành cho ông cũng không được như trước nữa. Trong triều đình, Tôn Thất Thuyết cũng bắt đầu ra mặt chống đối vua và khi biết được mưu tính muốn tìm sự hỗ trợ của Pháp để loại bỏ các quan Phụ cнíɴн đại thần trong triều của vua Hiệp Hòa, Tôn Thất Thuyết đã lên kế hoạch xuống tay trước.
Theo Việt sử tân biên: "Vua Hiệp Hòa thấy ông Tường và ông Thuyết có lập trường chính trị trái ngược mình, liền viết một bức thư giao cho Hồng Sâm, vừa là Bí thư vừa là anh em thúc bá của mình, để mang qua tòa Khâm để nhờ tay Pháp hạ hai quan Phụ chính trên. Việc lén lút này, bị Nội giám Đạt biết được, mách với ông Tường. Và ông Tường bắt được lá thư nằm trong chiếc hộp sơn, có đóng dấu của nhà vua. Ngay trưa hôm ấy (29 tháng năm 1883), sau khi truyền đóng hết tất cả các cửa Hoàng thành lại, triều thần nhóm họp bất thường hạch tội vua Hiệp Hòa. Nhà vua bị buộc ba tội:
-Thâm lạm công nhu.
-Không chịu nghe lời khuyến cáo của các quan phụ cнíɴн.
-Tư thông với đại diện của Pháp.
Vua Hiệp Hòa không cãi được, triều đình buộc ông phải thoái vị…”.
Võ tướng Ông Ích Khiêm, được cử làm người thi hành án. Ông đưa Hiệp Hòa một thanh gươm, một khúc vải lụa và một chén thuốc độc, yêu cầu vua tự chọn cái chết. Do dự 1 lúc, Hiệp Hòa chọn thuốc độc. Vào khoảng 4 giờ sau ông trút hơi thở cuối cùng tại tư thất. Sáng hôm sau, hoàng thân của ông là Hoàng Sâm cũng bị xử chém. Thấy vậy, Tuy Lý Vương sợ quán liền dẫn vợ con chạy ra cửa Thuận An nương nhờ Pháp. Nhưng rồi cũng bị bắt đày vào Quảng Ngãi.
Phúc Kiến làm vua 8 tháng
Phúc Kiến (1869 - 1884) tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Đăng. Ông là hoàng đến thứ 7 của nhà Nguyễn. Ông là con thứ 3 của Kiên quốc công Nguyễn Phúc Hồng Cai (em ruột vua Tự Đức, sau tôn là Thuần Nghị Kiên Thái vương) và bà phủ thiếp Bùi Thị Thanh. Húy của ông là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, lên ngôi lấy tên là Nguyễn Phúc Hạo, tự Dưỡng Thiện.
Ưng Đăng là 1 trong 3 người được vua Tự Đức nhận làm con nuôi. Theo Quốc triều sử toát yếu thì Ưng Đăng được vua Tự Đức truyền đem vào cung, giao cho bà Học phi Nguyễn Văn Thị Hương nuôi dạy từ lúc mới 2 tuổi.
Sách Đại Nam thực lục ghi nhận về tính cách của ông: "Vua từ thuở nhỏ đã hiểu biết sớm, ôn hòa, yên lặng, sạch sẽ, cẩn thận lời nói và việc làm. Khi hầu cơm, khi thăm hỏi kính cẩn giữ phận làm con. Ngày thường chỉ ưa thích sách vở, thơ văn".
Trong 3 người con nuôi, vua Tự Đức ưng ý với Ưng Đăng nhất. Năm 1882, ông được cho ra ở nhà đọc sách ở bên tả Duyệt Thị Đường, gọi là Dưỡng Thiện đường. Về sau những lúc rảnh, vua lại sai đem các tấu chương đến cho ông xem để tập quen dần với việc hình sự.
Nhưng khi vua Tự Đức qua đời, ông lại truyền ngôi cho Ưng Chân. Bởi vì lúc đó Ưng Đăng còn nhỏ tuổi mà đất nước cần một vị vua trưởng thành.
Nói về Ưng Đăng, trong di chiếu có đoạn: "Ưng Đăng tính thận trọng dễ bảo, hầu hạ sớm hôm cẩn thận, chưa có khuyết điểm gì, nhưng tuổi còn thơ bé, học chưa thông; đương lúc khó khăn này chưa chắc đã am hiểu công việc, nên trẫm đành bỏ tình riêng mà theo mưu nghiệp lớn...".
Sau khi vua Hiệp Hòa bị kết tội và xử lý, các quan phụ chính lại mở cuộc họp các đại thần, muốn Ưng Đăng lên nối ngôi. Mặc dù đã hết lời từ chối nhưng cuối cùng ông vẫn phải đăng cơ.
Ngày 2/12/1883, Ưng Đăng lên ngôi lấy hiệu là Phúc kiến hay còn gọi là Phúc Kiến Đế. Khi ấy ông mới chỉ 14 - 15 tuổi. Mang danh là vua nhưng chỉ là một vị vua bù nhìn, mọi việc trong triều đều do hai phụ chính là Thuyết và Tường định đoạt.
Mới ở ngôi được 8 tháng thì Kiến Phúc qua đời (31/7/1884). Cái chết của ông có nhiều nghi vẫn mà đến nay vẫn chưa có lời giải.
Theo nhiều người cho rằng, cái chết của ông là do Nguyễn Văn Tường đầu độc với nguyên nhân vua còn nhỏ bị bệnh đã được bà Học phi luôn ở cạnh chăm sóc. Nguyễn Văn Tường nhiều lần lấy cớ đến thăm để tằng tịu với bà phi này và bị Phúc Kiến phát hiện. Khi ấy ông còn nhỏ tuổi nên đã nói rằng khi lớn lên sẽ trừng trị họ. Vì sợ để lâu mang họa nên Tường đã nảy ra âm mưu đầu độc vua đến chết. Nhưng dù sao đây cũng chỉ là suy đoán nên không thể tin hoàn toàn được.
Ngoài ra, còn có một số giả thuyết như sau:
- Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường giết vua Kiến Phúc, tôn một vị vua nhỏ tuổi hơn để dễ việc nắm trọn quyền bính.
- Hai Phụ chính trên cho rằng Hòa ước Giáp Thân (1884) là bất bình đẳng, nếu vua Kiến Phúc không còn nữa thì "hiệp ước sẽ mất hết hiệu lực".
- Vua Kiến Phúc và phe phái của ông tư thông với Khâm sứ Pháp ở Huế, làm trở ngại công việc chống Pháp của hai Phụ chính.
Sau khi qua đời, vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có miếu hiệu Giản tông Nghị Hoàng đế, lăng của vua được nằm ở phía trái Khiêm Lăng, làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Xem thêm: Thời kỳ suy vong của nhà Nguyễn: 50 năm có 400 cuộc khởi nghĩa chống triều đình
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận