Bàn chuyện Lý Huệ Tông "nắn dòng" khiến Trần Liễu vồ hụt ngai vàng
Trần Liễu lấy Thuận Thiên công chúa, sớm đã được phong vương, làm phò mã và tưởng như "vật báu" đã nằm trong túi. Nhưng không ngờ rằng, Lý Huệ Tông lại đưa ra quyết định "nắn dòng" khiến Trần Liễu hụt ngai vàng...
Lý Huệ Tông là vị vua hiếm hoi trong lịch sử Việt Nam bị ghi nhận mắc chứng điên trong lúc trị vì đất nước. Lần thứ nhất điên được Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: "(Cuối 1216), nhà vua có chứng điên. Nhà vua bị trúng gió, thuốc chữa không công hiệu, từ đó dần dần sinh chứng cuồng dịch: khi thì xưng là thiên tướng giáng hạ, tay cầm giáo và mộc, trên búi tóc cắm lá cờ nhỏ, đùa giỡn múa may suốt ngày; khi thì toát mồ hôi, trong người ráo khát, uống rượu say, ngủ li bì đến mãi hôm sau mới tỉnh, không làm việc được; phải giao hết cả chính sự cho Trần Tự Khánh. Quyền bính trong nước về cả tay họ Trần".
Cũng phải nói rằng, thời điểm 1216, khi vua Huệ Tông về với quân của Trần Tự Khánh thì không khác gì Hán Hiến đế về với Tào Tháo, tức là không hề có chút quyền hành gì khi quân đội đều là do họ Trần nắm giữ. Do vậy, việc nói "quyền bính trong nước về cả tay họ Trần" cũng chỉ là cách nói hợp thức hóa quyền lực của họ Trần trên danh nghĩa mà thôi.
Cũng có thể thấy rằng, việc Lý Huệ Tông nương nhà họ Trần là không hề tự nguyện mà là do hoàn cảnh thúc ép. Từ khi Huệ Tông đăng cơ đã liên tục xảy ra va chạm với Tự khánh. Đến năm 1223, Tự Khánh mất quyền lực rơi vào tay Trần Thừa, người thay Khánh lên làm Thái úy.
Lúc Tự Khánh còn sống, có chuyên quyền lấn ép vua nhưng vẫn chưa có hành động thoán ngôi. Nhưng sau khi Trần Thừa lên, được sự hỗ trợ đắc lực của Trần Thủ Độ thì việc đổi ngôi được thúc đẩy rất nhanh.
Đại Việt sử lược chép, đến năm 1224 thì có một số sự kiện bất thường xảy ra như "từ Thượng Nguyên xuống đến kinh sư nước sông đỏ như máu" hay "núi Phật Tích, một chỗ ở ngoài trại bị nứt nẻ dài 30 trượng". Có thể coi những chuyện dị thường đó là mở đường dư luận cho việc thay đổi triều đại.
Đến tháng 10/1224, dưới áp lực của nhà Trần thì vua Lý Huệ Tông phải lập Lý Phật Kim làm Thái tử và cũng chỉ một thời gian ngắn sau đó là truyền ngôi cho Phật Kim.
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì việc truyền ngôi là ngay trong tháng 10/1224 còn theo Đại Việt sử lược là đến tháng 6/1225 thì Lý Huệ Tông mới nhường ngôi cho con gái. Song cả hai cuốn sử trên và các cuốn chính sử khác đều ghi nhận Lý Chiêu Hoàng giữ ngôi báu không lâu. Đến cuối 1225 là nhường ngôi cho Trần Cảnh.
Nhưng việc Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái út là Phật Kim là chuyện không thuận theo lẽ thường tình. Ở thời điểm đó, Huệ Tông không còn sự lựa chọn nào khác nên phải thoái vị. Nếu có binh quyền trong tay thì việc gì phải rời ngai vàng khi mới 30 tuổi?
Thêm nữa, theo quan điểm thời xưa nếu vua không có con trai nối dõi thì có thể nhường ngôi cho hoàng tử khác trong hoàng thất. Chẳng hạn thời điểm 1117, khi Lý Nhân Tông 50 tuổi, không có hi vọng về huyết mạch duy trì, bèn viết chiếu ban ra trong hoàng tộc, nói rằng: "Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có con nối, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Vậy nên trẫm nuôi con trai của các công hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người nào giỏi thì lập làm Thái tử. Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Lý Dương Hoán mới lên 2 tuổi mà thông minh lanh lợi, Nhân Tông rất yêu và bèn lập làm Hoàng thái tử".
Ngô Sĩ Liên bàn trong Đại Việt sử ký toàn thư về việc Lý Huệ Tông truyền ngôi cho con gái để đến nỗi cơ nghiệp nhà Lý mất về tay họ Trần như sau: "Nếu không may mà không có con thì chọn con của người tông thất nuôi làm con mình để nối giữ nghiệp lớn, đó cũng là một cách xử trí trong lúc biến vậy. Lý Nhân Tông đã làm như thế rồi, Huệ Tông sao không xét việc cũ mà làm theo, lại để đến sau lúc tật bệnh mới lập con gái mà truyền ngôi cho, thế có phải lẽ không? Các quan bấy giờ không ai nghĩ gì đến xã tắc, để cho Phùng Tá Chu viện dẫn việc Lữ hậu và Vũ hậu làm cớ mà thành ra việc Chiêu Hoàng nhường ngôi cho họ Trần, ấy là người có tội với họ Lý".
Thực tế, Lý Huệ Tông khi ấy có bệnh nặng đến đâu thì không biết nhưng ông không có quyền lựa chọn hoàng tử nào khác mà phải chọn công chúa nối ngôi theo ý của họ Trần. Nếu có quyền lựa chọn thì ông có thể chờ thêm vài năm nữa sinh hoàng tử rồi quyết định cũng chưa muộn.
Công chúa nối ngôi sẽ là người bắc cầu trung gian để truyền ngôi cho chồng là người họ Trần. Lý Huệ Tông chỉ có quyền lựa chọn truyền ngôi cho ai trong số 2 con gái mà vua có với Trần Thị Dung.
Theo lý, Huệ Tông nên truyền ngôi cho trưởng công chúa Lý Oanh. Khi đó, Huệ Tông chọn Thái tử, Lý Oanh (sinh 1216) đã 8 tuổi, lớn hơn Phật KIm 2 tuổi. Cũng thời điểm đó, Lý Oanh kết hôn với Trần Liễu. Sau đó, Liễu trở thành phò mã, được ban tước Phụng Càn vương.
Theo đúng kịch bản thời Trần Tự Khánh thì có thể trưởng công chúa nhà Lý kết hôn với Hiển Đạo vương Trần Hải (con trai của Trần Tự Khánh) để sau đó Trần Hải tiếp quản việc chuyển ngai vàng từ Lý sang Trần.Nhưng khi Tự Khánh mất, thì Trần Thừa lại "nắn dòng" lờ việc Trần Hải mà cho Trần Liễu (hơn công chúa 5 tuổi) vào thế.
Với kịch bản này thì Trần Liễu - con trưởng của Trần Thừa là người tiếp quản việc chuyển ngai vàng từ nhà Lý sang nhà Trần. Thời điểm đó, Trần Cảnh gần như không có trong "danh sách" cơ cấu vào ngai vàng vì ông là con thứ, tuổi còn nhỏ (kém Trần Liễu 7 tuổi).
Nhưng Lý Huệ Tông vẫn cố gắng "nắn dòng" tiếp. Ông chuyển giao ngôi báu cho Lý Phật Kim. Họ Trần khi ấy không phản đối mà còn hài lòng khi người lên ngôi là một đứa bé mới còn nhỏ hơn trưởng công chúa Lý Oanh 2 tuổi. Sau khi Lý Phật Kim được truyền ngôi thì Trần Thừa đã điều chỉnh nước cờ bằng việc đưa Trần Cảnh vào cung làm chức Nội thị chính thủ vào tháng 10/1225. Đến tháng 12/1225 thì Nội thị chính thủ Trần Cảnh tự xưng Hoàng đế.
Sử chép đơn giản như sau: "Một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy cái khăn trầu ném cho Trần Cảnh. Trần Cảnh lạy, nhận lấy, rồi mách với Thủ Độ. Thủ Độ liền đem gia thuộc và họ hàng vào trong cung cấm, sai đóng các cửa thành lại. Trăm quan tiến triều không vào được. Thủ Độ nhân thế, loan báo cho mọi người: "Bệ hạ đã có chồng rồi!". Các quan đều vâng lời và xin chọn ngày vào hầu để làm lễ yết kiến. Ngày 21 tháng 12, bầy tôi tiến triều, lạy mừng. Nhà vua xuống chiếu, truyền ngôi cho Trần Cảnh".
Việc Trần Cảnh nhập cung, làm chồng của Lý Chiêu Hoàng diễn ra chóng vánh trong vòng 2 tháng. Nếu không phải đó là những bước được sắp xếp trước trong vở kịch nhường ngôi thì không thể thực hiện nhanh chóng như vậy. Với Trần Thừa, Trần Thủ Độ thì mọi việc diễn ra đúng kế hoạch khi con chúa của họ lên ngôi một cách êm đẹp.
Nhưng ngược lại, với Trần Liễu, đây quả là một vố đau. Ban đầu, được phong vương sớm, là phò mã sớm, và là phu quân của trưởng công chúa nên việc nối ngôi ở tuổi 15 tưởng như vật nằm trong túi. Thế nhưng, việc "nắn dòng" của Huệ Tông lại kiến Trần Liễu vồ hụt ngai vàng.
Chính việc này khiến Trần Liễu ôm hận, sinh lòng bất mãn. Thêm sự kiện sau này, Lý Oanh (Thuận Thiên công chúa) - người vợ đang mang thai 3 tháng rơi vào tay Trần Cảnh khiến ông càng căm phẫn hơn. Cuối cùng gây loạn ở sông Cái. Cũng may, binh lực của Trần Liễu không mạnh nên bị trấn áp kịp thời nên nhà Trần không rơi vào cảnh nồi da nấu thịt lâu dài.
Có lẽ Lý Huệ Tông cũng đã lường trước được cảnh bất ổn của họ Trần sau khi bỏ con gái trưởng truyền ngôi cho con thứ dù nó làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của các ong. Song đây cũng là cách tốt nhất mà Lý Huệ Tông có thể làm khiến nhà Trần lục đục và khi nhà Trần lục đục thì nhà Lý mới tranh thủ cơ hội phục vị.,
Song thực tế, sau này, cả Thuận Thành và Chiêu Hoàng đều không hạnh phúc. Trần Cảnh phải bỏ Chiêu Hoàng để lấy Thuận Thiên bất chấp Thuận Thiên vừa là chị dâu, vừa là chị vợ. Anh em Trần Liễu - Trần Cảnh cũng rơi vào cảnh hiềm khích lẫn nhau đến hết đời. Nhưng nhà Trần không đến nỗi vì thế mà rơi vào cảnh loạn và nhà Lý cũng không có cơ hội tìm lại đế vị.
Xem thêm: Lật lại “vụ án” tàn sát tôn tộc nhà Lý và thử minh oan cho Thái sư Trần Thủ Độ
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận