Nhớ về Thăng Long một thời từng khiến người Pháp phải choáng ngợp
Với tư cách là một viên sĩ quan phụ trách kế toán trên tàu của Công ty Đông Ấn Hà Lan, Daniel Tavernier đã từng đặt chân đến Thăng Long trong khoảng thời gian 1639-1645 và có nhiều trải nghiệm, ấn tượng sâu sắc về nơi này.
Daniel vẫn còn công trình nghiên cứu dang dở khi bất ngờ qua đời năm 1648. Sau đó, công trình này được hoàn thiện, xuất bản tại Paris năm 1681 với tên gọi: “Tập du ký mới và kỳ thú về Vương quốc Đàng Ngoài”.
Người dân hiền lành, chất phác
Ẩm thực của người Việt ở Thăng Long thường rất đơn giản. Hầu như những bữa ăn hằng ngày đều là những sản phẩm nông nghiệp bình dân quen thuộc. Điều này phụ thuộc vào đặc thù của đời sống và nghề nghiệp của người dân.
Trong sách có viết: “Người Đàng Ngoài thường không cầu kỳ trong những bữa cơm. Giới thường dân chỉ ăn cơm với cá khô hay trứng muối, và họ chỉ ăn thịt trong những bữa yến tiệc mà thôi. Chỉ với những vị vương hầu quyền lực, người ta bao giờ cũng dọn thịt cá”.
Khi ăn, thức ăn được cho ra những chiếc đĩa nhỏ để trên mâm. Những đĩa nhỏ làm bằng gỗ sơn son thếp màu vàng, vẽ đủ loại hoa văn. Khi ăn, người dân không dao hay dĩa như người phương Tây mà chỉ dùng đũa một cách khéo léo, không bao giờ đụng tay vào thức ăn.
Đối với các hoạt động vui chơi giải trí thì chèo tuồng là phổ biến nhất. Thông thường, chèo tuồng được tổ chức vào ban đêm ở một bãi đất rộng rãi hoặc một gian phòng lớn được trang trí cầu kỳ. Những vở chèo tuồng thường tái hiện bối cảnh và nhân vật lịch sử, nhiều khi là cảnh sinh hoạt thường ngày của người dân nhằm truyền đạt tình yêu cuộc sống và giáo dục truyền thống dân tộc.
Trong sách có viết: “Diễn viên biết diễn tả biển và sông và những trận thuỷ chiến bằng tàu thuyền, mặc dù họ chỉ có 8 người. Khi diễn đào kép mặc quần áo lộng lẫy, mũ của đào là thứ mũ miện đội vừa chít khăn trên đầu, mà có hai dải to bằng ba ngón tay buông thõng xuống đến tận thắt lưng. Cả đào lẫn kép đóng vai rất khéo và múa rất đúng nhịp”.
Ngoài ra, còn có nhiều trò phổ biến khác như đánh đu, đánh cù, đá cầu… còn với giới quý tộc là đi câu cá và đi săn.
Đa tín ngưỡng tôn giáo, y học phát triển vượt bậc
Tavernier rất ấn tượng về những quốc gia đa tôn giáo. Theo Tavernier, dân chúng Thăng Long là những tín đồ của Phật giáo, Nho giáo và đạo Lão. Trong đó, Nho giáo chỉ được một bộ phận ở tầng lớp trên của xã hội tiếp nhận, nhất và vua và các vua quan. Dân chúng chốn kinh kỳ lại tôn sùng Phật giáo.
Những vương hầu sùng Phật không ngại bỏ tiền để tô điểm cho chùa và những pho tượng. Đặc tính từ bi bác ái của nhà Phật cũng được người Việt phát huy, vận dụng vào việc đối nhân xử thế. Ngoài đạo Phật thì Đạo giáo cũng khá phát triển trong dân chúng. “Điều làm cho dân chúng tin theo ông là ông bao giờ cũng khuyên họ làm điều thiện và cho xây dựng những cơ sở chữa bệnh ở tất cả những nơi chưa có cơ sở chữa bệnh”, Tavernier cho biết.
Ở thế kỷ 17, người Việt ở Thăng Long còn duy trì nhiều tín ngưỡng truyền thống như việc thờ Táo quân: “Ở Đàng Ngoài có tục thờ ba vị thần trong nhà. Một là Táo Quân (Thần bếp), tức là ông đầu rau”. Bên cạnh đó còn có tục thờ Thổ công, trở thành một phần không thể thiếu mỗi khi xây nhà.
Thăng Long còn có nhiều phường, làng nghề truyền thống như làm giấy, đúc đồng, kim hoàn, tục thờ tổ nghề. Không chỉ vậy, trong các dịp lễ Tết người dân còn có những nghi thức thờ cúng, lễ tục riêng. Có thể kể đến tục đi chùa dâng hương vào ngày rằm âm lịch hàng tháng. Trong ngày Tết, lễ cúng càng long trọng hơn: “Những ngày mồng một Tết lấy vôi vẽ những hình tròn, vuông, tam giác ở trước cửa. Họ bảo rằng những hình đó làm cho ma quỷ phải lánh xa”. Bên cạnh đó, các tục lệ, tín ngưỡng mang tính ma thuật như xem bói, lên đồng cũng rất phổ biến.
Không chỉ đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo, y học thời đó còn rất phát triển. Hàng loạt những phong tục, phép trị liệu dân gian khiến Tavernier phải “mắt tròn mắt dẹt”. Những lát cây dễ kiếm, những lát gừng hay đồng bạc trắng đều có thể chữa bệnh hiệu quả.
Đặc biệt, người dân chỉ sử dụng cỏ cây để chữa bệnh: “Về các vị thuốc, họ chỉ dùng cỏ, rễ cây mà chính họ đi hái, kiếm về… Họ có những vị thuốc rất hay chữa bệnh trúng phong, đậu lào và những bệnh khác mà người châu Âu không thể chữa được”.
Tavernier càng khâm phục hơn khi biết người Việt trúng phong chỉ cần đánh gió, xông với một chút hương liệu là khỏi. “Bệnh nguy hiểm nhất ở Đàng Ngoài thường là do gió độc gây ra cho người ta. Vì chỉ trong chốc lát là cấm khẩu, rồi nếu chữa trị không kịp thời thì thế nào cũng chết. Thuốc tốt nhất trị bệnh đó là pha một ít thuốc giải độc vào với rượu, đem đun lên cho bệnh nhân uống càng nóng càng tốt...
Đó là vị thuốc kỳ diệu khỏi làm đau mình mẩy do gió lạnh hay do gió độc gây ra. Muốn được chóng khỏi đau mình mẩy, có khi sau khi đã bôi nước gừng, cần nằm trên một cái giường có dát cách nhau độ bốn ngón tay, ở dưới gầm đặt hai lò than trong đó bỏ một ít hương liệu, khói thơm bốc lên vây quanh người ốm làm cho mồ hôi đổ ra, thế là khỏi”.
Tavernier khó tin trước phép dùng lửa chữa bệnh của dân Thăng Long thời đó. Nhất là bệnh đậu lào - thứ bệnh nguy hiểm ở Pháp nhưng người dân dễ dàng chữa khỏi. Các thầy thuốc Đàng Ngoài lấy lõi cây phơi khô, tẩm dầu rồi đốt lên các vết đậu, đem áp mồi lửa lên từng nốt vết đó sẽ bắn ra...
Xem thêm: Giai thoại ly kỳ về "mệnh đế vương" của vua Lý Thái Tổ
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận