Giai thoại ly kỳ về "mệnh đế vương" của vua Lý Thái Tổ

Đã mang danh "thiên tử" thì vị đế vương nào ở cõi Nam ta cũng có dăm ba huyền tích vây quanh. Lý Thái Tổ cũng không phải ngoại lệ. Xung quanh mệnh đế vương của ông có rất nhiều giai thoại ly kỳ. 

Đỗ Thu Nga
10:00 18/07/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Vị vua ứng mệnh trời, thuận lòng dân

Lý Thái Tổ (8/3/947 - 31/3/1028) tên thật là Lý Công Uẩn - vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì đất nước từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1208. Cho đến thời điểm hiện tại, câu chuyện về thân thế của Lý Công Uẩn vẫn rất mờ ảo. 

Trong sách Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư đều ghi chép, Lý Công Uẩn là người Cổ Pháp, Bắc Giang (ngày nay là thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh). Mẹ ông họ Phạm. Theo dã sử và giai thoại dân gian, mẹ ông là bà Phạm Thị Ngà, người làng Dương Lôi, hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, sau khi lên vua, ông truy phong bà là Minh Đức thái hậu.

Song tên cha ông là gì thì chưa rõ, chỉ biết, sau khi ông lên ngôi đã truy tôn cha mình tước Hiển Khánh Vương. Trong dã sử và giai thoại dân gian có nhiều thuyết ly kỳ về việc ai là cha Lý Thái Tổ? Như lời đồn đại, Lý Công Uẩn là con đẻ của sư Khánh Văn.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn viết: "Mẹ vua đi chơi chùa Tiên Sơn cùng với thần nhân giao cấu rồi có chửa, sinh ra vua ”, sách Việt sử tiêu án thì viết:  “Bài ký ở chùa Tiên Sơn có nói: thái hậu cảm tinh anh của Bạch Hầu mà sinh ra vua,…".

Ngoại truyện lại nói: Mẹ vua năm 20 tuổi nghèo hèn không có chồng nương nhờ lão Sa môn ở chùa Ứng Thiên, làm việc thổi nấu, khi lửa tắt bà đang ngủ lơ mơ, lão Sa môn ngẫu nhiên chạm phải, giật mình trở dậy  rồi có thai mà sinh ra vua…Thế thì thật không biết người nào là cha vua nữa”.

giai-thoai-ly-ky-ve-menh-de-vuong-cua-vua-ly-thai-to-7
Tranh vẽ Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn)

Đại Việt sử học cũng chép ông có 1 người anh trai (sau được phong Vũ Uy Vương) và một người em trai (sau được phong Dực Thánh Vương). Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép, anh của Lý Công Uẩn được phong Uy Vũ Vương và một người chú được phong Vũ Đạo Vương. 

Lý Thái Tổ lên ngôi vào tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009), lấy hiệu Thuận Thiên. Triều đình "dâng tôn hiệu là Phụng thiên chí lý ứng vận tự tại thánh minh long hiện duệ văn anh vũ sùng nhân quảng hiếu thiên hạ thái bình khâm minh quang thạch chương minh vạn bang hiển ứng phù cảm uy chấn phiên man duệ mưu thần trợ thánh trị tắc thiên đạo chính hoàng đế”.

Sau khi lên ngôi, ông dùng quốc hiệu Đại Cồ Việt, còn kinh đô, ban đầu đóng ở Hoa Lư. Đến năm Canh Tuất (1010) thì dời đô về Đại La (Hà Nội ngày nay). Tương truyền, khi đoàn thuyền của vua Lý đến bờ sông Hồng thì "có con rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự" vì thế vua đã đặt tên cho kinh đô mới là Thăng Long. Lý Công Uẩn ngự ngôi báu 18 năm rồi mất vì bệnh vào ngày 3/3 năm Mậu Thìn (1028), thọ 55 tuổi.

Đánh giá về Lý Thái Tổ, sử sách ca ngợi rằng: “Vua ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thì mở vận, là người khoan từ nhân thứ, tính ôn nhã, có lượng đế vương. Song chưa rõ chính học, ưa thích dị đoan, đó là chỗ kém… Lý Thái Tổ dấy lên, tự trời báo điềm tốt hiện ra ở nét cây thiêng.

Có đức tất có ngôi, bởi vì lòng người quy phục, lại nhằm lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà Lý Thái Tổ thì vốn tiếng khoan nhân, trời tìm người làm chủ dân, dân theo về người có đức, trừ Lý Thái Tổ ra thì còn ai hơn nữa! Xét ra vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp kẻ phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ yên lành, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu  lược của bậc đế vương” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Trong sách Việt giám thông khảo tổng luận thì viết về ông như sau: "Lý Thái Tổ nhân Ngọa Triều thất đức, hiệp điềm tốt, sét đánh thành chữ, ứng mệnh trời thuận lòng người, thừa thời mở vận; có đại độ khoan nhân, có quy mô xa rộng, dời đô định vạc, kính trời yêu dân; tô ruộng có lệnh tha, phú dịch có mức độ; Bắc Nam thông hiểu, thiên hạ bình yên”.

Lý Công Uẩn và ơn cứu mạng của vợ chồng lão nông Trần Quý

Trong sách Đại Nam nhất thống chí được biên soạn dưới triều Nguyễn có viết: Tương truyền vào một năm nọ ở vùng Hoa Lư nước sống dâng cao, đe dọa mùa màng, triều đình liền huy động phu tráng ở nhiều nơi đi hộ đê. Khi đó, Lý Công Uẩn đang ở tuổi trưởng thành và chỉ là người dân thường cũng tham gia hộ đê. Thấy đám phu nặng nhọc khuân vác từng cây tre, ông nói lớn: "Các anh hãy nghỉ tay một lát, cứ để đấy tôi làm thay cho".

Rồi ông bó tre, gỗ thành từng bó lớn vác lên vai đi thoăn thoắt, ném cả xuống sông kè ngăn dòng nước, gây thành sóng lớn động đến cả hoàng cung. Khi đó, vua Lê Đại Hành bị đau mắt nặng, chữa mãi không thuyên giảm, vào một đêm lại nằm mơ thấy có người đến nói rằng: "Ở Cổ Pháp có họ Lý là quý nhân, sau này sẽ cướp ngôi, phải trừ sớm đi".

Tỉnh dậy, ông thấy lòng bất an và nhớ tới lời tâu của đại thần cho biết trong dân gian lưu truyền câu sấm: Ta trong hạt mận sinh ra. Lấy làm lo ngại về điềm lạ này có liên quan đến người họ Lý, vua truyền thầy bói vào cung gieo quẻ, thầy bói nói trong đám dân phu có kẻ ném tre xuống sông lấp mất mắt rồng, cần bắt chém đầu thì mọi chuyện sẽ yên. 

Biết tin triều đình đang lùng bắt người tình nghi, Lý Công Uẩn vội bỏ trốn về quê, đi đến đâu cũng thấy đám mây ngũ sắc bay theo như một tán lọng che trên đầu. Khi quan quân đuổi theo thì bỗng xuất hiện 2 con chim hạc múa rất đẹp. Quan quân thấy lạ đứng lại xem thế là Lý Công Uẩn thoát thân.

giai-thoai-ly-ky-ve-menh-de-vuong-cua-vua-ly-thai-to-0
Tượng đài Lý Thái Tổ tại Vườn hoa Lý Thái Tổ, Hà Nội

Một lần khác, quân lính đuổi theo Lý Công Uẩn đến cánh đồng làng Tam Tảo (nay thuộc xã Phú Lâm, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Lúc này ngoài đồng có cặp vợ chồng lão nông đang cày ruộng, Lý Công Uẩn liền nói sự tình và xin giúp đỡ. Bà lão liền lấy bùn đất vẩy lên người Lý Công Uẩn rồi đưa trâu bảo cày. Còn lão nông thì vác cuộc đi xóa dấu chân của Lý Công Uẩn.

Khi quân lính đến hỏi, ông lão nói: "Từ sáng đến giờ chỉ có vợ chồng tôi và đứa con làm ruộng ở đây, chứ không thấy ai qua lại".

Đợi quan quân đi hết, vợ chồng ông lão đưa Lý Công Uẩn về nhà cho ăn cơm rồi đào hầm dưới gốc cây mận trong vườn để làm nơi ẩn náu, lấy ván đậy lên để trên đó là vại nước. Khi quân lính ập đến nhà tìm kiếm, ông lão chỉ nói: "Lý đây! Còn Lý nào nữa thì các cậu ra sông mà tìm (theo chữ Hán, Lý = mận).

Không tìm được Lý Công Uẩn, quân lính dành ra về. Vua Lê Đại Hành xem quẻ, thầy bói nói rằng: "Người này đang ở dưới nước". Tin rằng kẻ cần bắt đã chết đuối, vua Lê Đại Hành mới dừng truy lùng.

Sau này khi đã thành danh, nhớ công ơn cặp vợ chồng lão nông, Lý Thái Tổ đã phong ông già làm Phụ Quốc đại vương, bà vợ được phong là Vương phi. Đến khi hai người mất thì lập đền thờ tại nền nhà cũ của họ để người dân hương khói hàng năm.

Theo lời truyền tụng tại Từ Sơn (Bắc Ninh) thì chuyện này xảy ra dưới thời Lê Ngọa Triều; lúc đó thiên hạ đồn đại nhiều về những câu sấm truyền “Nhà Lê sẽ mất, họ Lý lên thay” vì thế vua Lê Ngọa Triều rất lo lắng sai người đi lùng bắt, giết chết những người họ Lý.

Tương truyền, Lý Công Uẩn được mẹ báo mộng khuyên trốn sang vùng Tam Tảo lánh nạn. Trên đường trốn chạy có vợ chồng lão nông Trần Quý, Phương Dung đang cày ruộng. Họ sẽ bất chấp nguy hiểm cứu Lý Công Uẩn rồi đem về nhà đào hầm che dấu. Vì thế quan lính không bắt được đành theo quan chỉ huy quay về, vì thế chỗ đó sau được gọi là Hồi Quan (nay thuộc xã Tương Giang, TX Từ Sơn, Bắc Ninh).

Theo bản thần tích đền Hộ Quốc thì  vào cuối triều Tiền Lê, nhân lúc triều đình suy yếu, trăm họ oán thán, Lý Công Uẩn làm binh biến nhưng thất bại phải chạy từ Hoa Lư về Kinh Bắc, đến trang Tam Tảo thì được ông Trần Qúy và vợ là Đặng Thị Phương Dung cứu thoát nạn. 

Khi lên ngôi, ông phong Trần Qúy là Phụ Quốc tán hộ vệ dực bảo quốc và vợ là Đặng Thị Phương Dung là Hoàng Thái hậu. Ngôi nhà của ông bà sau được dựng thành đền gọi là đền Hộ Quốc (đền giúp nước) để thờ phụng ân nhân của vua.

Hàng năm cứ vào mùng 10 tháng 2 Âm lịch, dân làng lại tổ chức hội và làm lễ kỷ niệm ngày sinh của ông bà Trần Qúy; đến ngày mồng 1 tháng 4 âm lịch thì tổ chức tế lễ kỷ niệm ngày “hóa” của ông bà với nghi thức trang trọng, quy mô.

Vào những ngày này, các làng xã ở Dương Lôi, Tiên Sơn, Đình Bảng… đều phải “gửi giỗ và ăn giỗ”; triều đình cũng cử quan quân về cùng dân làng làm giỗ vì thế ngôi đền Hộ Quốc còn được gọi là “Quốc tế từ”...

Xem thêm: Danh tướng nước Việt khiến quân Hung Nô khiếp sợ, được Tần Thủy Hoàng đúc tượng, gả công chúa là ai?

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận