Danh nhân Hồ Hưng Dật: Ông tổ của Hồ Quý Ly, mưu sĩ giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân
Nguyên tổ họ Hồ Việt Nam - Hồ Hưng Dật từng góp sức hiến kế để vua Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Khi đăng cơ, vua Đinh đã sắc phong ông làm trấn thủ Hoan Châu.
Mưu sĩ phương Bắc giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Hưng Dật (907 - ?) vốn quê gốc ở Chiết Giang (Trung Quốc). Ông sống vào thời đại tương đương với Dương Tâm Kha của Việt Nam.
Hồ Hưng Dật sang làm thái thú ở Diễn Châu, sau sống ở hương Đào Bột (nay là xã Quỳnh Lâm, Nghệ An) rồi làm trại chủ tại đây.
Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư và Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì: Hồ Hưng Dật đỗ Trạng nguyên thời Hậu Hán ((947 - 951) nằm trong thời Ngũ đại (906 - 960), là giai đoạn tan rã lần thứ hai của chế độ quân chủ Trung Quốc. Hậu Hán chỉ kéo dài 4 năm với hai đời vua là Hậu Hán đế Lưu Trí Viễn và Hán Ẩn đế Lưu Thừa Hữu (theo gia phả do tiến sĩ hồ Sĩ Dương biên soạn).
Chính sách của Hậu Hán tàn bạo vô cùng. Triều đình ban lệnh kẻ nào lén giữ một tấc da bò, không nộp hết cho triều đình sẽ bị xử tử. Vậy nên, dân chúng trốn thuế và lánh đi rất nhiều.
Hồ Hưng Dật đã nam tiến ngay sau khi đỗ Trạng nguyên, sang Giao Châu, chính sau cuộc cướp quyền của Dương Tam Kha ((945 - 950) và đối đầu với cuộc nổi loạn Thập nhị sứ quân (945 - 967). Ông tìm nơi lánh nạn và kiếm kế sinh sống tại hương Bào Đột (xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An).
Khi đến Hoan Châu, ông quen với Đinh Công Trứ, thân sinh vua Đinh Bộ Lĩnh. Khi vua Đinh Bộ Lĩnh dấy quân dẹp các sứ quân, có đến gặp ông, thăm dò xem ông có tham gia dấy quân không. Ông có góp ý với vua Đinh Bộ Lĩnh về kế hoạch dẹp loạn sứ quân. Còn việc tham gia dấy binh thì ông thổ lộ với Đinh Bộ Lĩnh là mới lưu lạc đến đây, chỉ xin “vạn đại vi dân” (theo Hồ tộc phả ký của Hồ Sĩ Phôi).
Đền thờ nguyên tổ họ Hồ - di sản văn của nước Việt
Sau cuộc nam tiến từ đát Chiết Giang xưa là Ngô Việt nằm trong địa bàn Bách Việt, để tránh Hán hóa, ông đã đến xứ Lạc Việt, hòa nhập cộng đồng. Sách cũ còn ghi triết lý "phúc bất năng hưởng tận” của ông để con cháu đời đời chia sẻ với cộng đồng niềm vui, hạnh phúc.
Hơn 1 nghìn năm từ khi nguyên tổ Hồ Hưng Dật vị ở Giao Châu, con cháu họ Hồ (đến nay hơn 40 đời) tiếp thu giáo huấn của nguyên tổ, phấn đấu làm tròn nhiệm vụ công dân nước Việt trên tất cả các mặt văn trị, võ công, kinh bang tế thế.
Đền thờ nguyên tổ họ Hồ được các vua Hồ (Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương) xây cất ở nơi ông lập nghiệp (hương Bào Đột) vào năm Quý Mùi (1403) niên hiệu Khai Đại thứ nhất. Đây là một ngôi đền lớn với kiến trúc Trần Hồ, chẳng những là di sản văn hoá có giá trị của Nghệ An, mà của cả nước.
Do không thấy hết giá trị của đền nên đền không được bảo vệ. Ngày nay con chúa họ Hồ - cùng với sự giúp đỡ của chính quyền địa phương - đang có kế hoạch tái tạo một phần để tưởng niệm nguyên tổ Hồ Hưng Dật - vị tổ sản sinh nhiều nhân vật kiệt xuất cho đất nước sốt trường kỳ lịch sử từ thế kỷ thứ X cho đến nay.
Sự hiểu biết về nguyên tổ họ Hồ Việt Nam chưa nhiều, nhưng những nét cơ bản đã được Quốc sử khẳng định. Đó là điều sở đắc và niềm vui của con cháu họ Hồ.
Gần đây, bài thơ "Nhớ Nguyễn xuân Phầu" ông Ngô Đức Tiến (Báo Nghệ An số 2493 ngày 5/3/2000) đã viết: “Khi Trạng Nguyên Hồ Hưng Dật được cử sang làm Thái thú ở Châu Diễn năm 627, đã chọn Khe Sừng Quỳ Lăng làm châu trị của châu Diễn là có làng Quì Lăng…”. Chúng tôi không rõ ông Tiến đã dựa vào sử liệu nào mà viết như thế. Năm 627 là thuộc đời Đường Thái Tông Lý Thế Dân (626 - 649). Trong khi đó, quốc sử ghi Hồ Hưng Dật sang Giao Châu thời Hậu Hán - Ngũ Đại (947 - 951).
Chả nhẽ ông sang Việt Nam trước khi ông ra đời khoảng 300 năm! Theo Vân Đài loại ngữ thì thế kỷ thứ 7, thứ 8, Quỳ Lăng là trị sở châu Diễn, qua nhiều triều, trị sở châu Diễn lúc ở Quì Lăng, lúc ở Đường Khê, lúc ở Thành Trài, lúc ở Diễn Thành. Giữa thế kỷ thứ X, Hồ Hưng Dật mới sang Giao Châu khi mà Ngô Quyền đã giành độc lập sau 1000 năm Bắc thuộc. Chả nhẽ bấy giờ ông lại làm Thái thú đô hộ châu Diễn ư?
Có người còn bào Đình Sừng là nơi ở, nơi làm việc của Hồ Hưng Dật và đề nghị xem đó là đền thờ nguyên tổ họ Hồ. Thật ra, tại đây còn có dòng chữ ghi rõ: “Tân Phúc đình, Quì Lăng xã, lý tác Hoàng triều Duy Tân” (đình Tân Phúc, xã Quì Lăng làm vào đời vua Duy Tân).
Chúng tôi nghĩ rằng, nếu có cứi liệu rõ ràng trên bước đường tìm nơi cư trú lập nghiệp, có thời gian, Hồ Hưng Dật cư trú tại Quì Lăng thì con cháu đặt hương án tưởng niệm cụ tại đó là việc làm bình thường (cũng như sau này đối với tổ Hồ Hồng, ngoài nhà thờ ở Quỳnh Đôi, còn có nhà thờ ông ở Huế, ở Đà Nẵng - Quảng Nam). Còn nhà thờ chính của nguyên tổ họ Hồ Việt Nam - Hồ Hưng Dật là ở hương Bào Đột xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An.
Ngày 12/12/2014, Bộ văn hóa thể thao và du lịch có quyết định số 4106/QĐ-BVHTT&DL xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia - Đền thờ Nguyên tổ Họ Hồ Việt Nam, Trạng nguyên Hồ Hưng Dật - thần thành hoàng; thờ các Vua Hồ và các bậc tiên liệt họ Hồ Việt Nam.
Đây là sự ghi nhận của nhà nước và xã hội đối với những người có công với dân, với nước; với một công trình có giá trị lớn về đời sống văn hóa tâm linh, lịch sử và nghệ thuật kiến trúc.
Lịch sử của nguyên tổ họ Hồ theo trang thông tin Họ Hồ Việt Nam
Năm Quý Mùi 1403, vua Hồ Hán Thương vâng lệnh Thái Thượng Hoàng Hồ Quý Ly xây dựng đền tại thôn Bào Đột (xưa) nay là xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu để thờ nguyên tổ họ Hồ Việt Nam – Trạng nguyên Hồ Hưng Dật. Ngài là người Bách Việt ở Chiết Giang thời Ngũ đại, còn gọi là Ngũ Quý Hậu Hán Ân Đế, là nho thần về nước ta thời hậu Ngô làm quan Thái thú Châu Diễn (nay là các huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Nghĩa Đàn).
Đến thời loạn lạc 12 sứ quân, ngài lui về làm trại chủ Hương Đào Bột. Cuộc đời ngài là tấm gương sáng về đức cao vọng trọng khi ở chốn quan trường, cũng như lúc lui về làm thường dân. Ngài luôn tỏ rõ tâm niệm và di huấn lại cho cháu con là “Vạn đại vi dân”, nghĩa là muôn đời vì dân, muôn đời làm dân. Vì vậy, khi ngài qua đời, nhân dân trong vùng tôn thờ ngài là Thần Thành Hoàng và rước các vua Hồ về cùng phối tế tại đền, nên quen gọi là đền vua Hồ.
Đền tọa lạc trên vùng đất của dãy núi Ý Sảo, thế long ngai vững chắc, bên phải là Hòn Rồng, bên trái là Hòn Rết và núi Ngọc. Trải qua thời gian và thăng trầm thế sự, đền vua Hồ dần trở thành phế tích. Với tâm nguyện và ý thức thành kính tri ân tiên tổ, con cháu họ Hồ Việt Nam đã chung sức, chung lòng quyết tâm phục dựng lại linh từ của dòng họ. Sau gần 4 năm xây dựng, đền vua Hồ, từ đường của họ Hồ Việt Nam cơ bản được phục dựng theo quy hoạch.
Trong không gian quy hoạch hơn 150ha được UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt tại Quyết định số 2697/QĐUB ngày 10/6/2009, đến nay, các hạng mục chính của đền đã được phục dựng. Các công trình phụ trợ như đường đi, hệ thống điện chiếu sáng, cấp nước, thoát nước, sân vườn, cây cảnh khá hoàn chỉnh, tạo vẻ hoành tráng, uy nghiêm, lưu giữ được nét cổ kính của ngôi đền xưa.
Đền là công trình kiến trúc bằng gỗ lim, được phục dựng với quy mô lớn, đồ sộ, trang trí công phu với nhiều mảng khắc, chạm tinh tế, đẹp mắt, kết hợp hài hòa giá trị sử dụng với giá trị thẩm mỹ thể hiện được phong cách kiến trúc cổ truyền của dân tộc. Các tài liệu và hiện vật được lưu trữ, thờ phụng tại đền giúp chúng ta hiểu biết thêm về bề dày lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, thờ phụng, phong tục, tập quán, truyền thống trọng đạo của nhân dân đối với người có công với dân với nước.
Các hoạt động tế tổ ngày 10 và ngày 11 tháng Giêng Âm lịch, Lễ hội đền vua Hồ vào tiết Thanh Minh (từ ngày 12 -15 tháng ba Âm lịch) diễn ra tại đền đang được phục dựng trở thành nét đẹp dân gian, phản ánh tình cảm, sự biết ơn, ngưỡng vọng của con cháu, của nhân dân đối với các bậc tiền nhân, người có công; phản ánh phong tục đẹp trong đời sống văn hóa tâm linh và bản sắc văn hóa của dân tộc.
Thông qua đó, thắt chặt tinh thần đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” khơi dậy niềm tự hào tình yêu dòng họ, quê hương, đất nước; ý thức bảo vệ và phát huy giá trị vĩnh hằng của di tích lịch sử văn hóa.
(T/h)
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận