Chuyện ly kỳ về Trần Nhật Duật: Vị tiên đồng giáng sinh nơi hạ thế được đội quân "hổ thần" giúp phá giặc

Giống như các vị tướng tài khác của dân tộc, cuộc đời  Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật cũng nhuốm màu huyền bí. Có giai thoại cho rằng, ông là tiên đồng giáng sinh nơi hạ giới giúp nhân dân đánh tan giặc ngoại xâm...

Đỗ Thu Nga
15:00 27/11/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Vị tiên đồng giáng sinh nơi hạ giới

Trần Nhật Duật (1255 – 1330), được biết qua tước hiệu Chiêu Văn vương hay Chiêu Văn đại vương. Ông là con trai thứ 6 của vua Trần Thái Tông. Người đương thời gọi ông là Ông hoàng Sáu hoặc Hoàng lục tử. 

Trong Đại Việt sử ký toàn thư có viết về sự ra đời của ông như sau: "Mùa hạ, tháng 4 ... Hoàng tử thứ 6 Nhật Duật sinh. Trước đó, đạo sĩ cung Thái Thanh tên là Thậm cầu tự cho vua. Đọc sớ xong tâu vua:

- Thượng đế đã y lời sớ tấu,  sắp sai  Chiêu Văn đồng tử giáng sinh, ở trần thế bốn kỷ (48 năm). 

Thế rồi hậu cung có mang. Sau quả nhiên sinh ra một bé trai, hai cánh tay có chữ "Chiêu Văn đồng tử", nét chữ rất rõ, vì thế có hiệu là Chiêu Văn. Lớn lên, nét chữ ấy dần mất đi. Đến năm Nhật Duật 48 tuổi, bị ốm 1 tháng, các con ông làm chay,  xin giảm tuổi thọ của mình để kéo dài tuổi thọ cho cha. Đạo sĩ đọc sớ xong, đứng dậy nói:

- Thượng đế xem sớ xong cười bảo: Sao hắn quyến luyến trấn tục muốn ở lại lâu thế, nhưng các con hắn thực lòng hiếu thảo, cũng đáng cho. Thôi cho thêm 2 kỷ nữa. 

Thế rồi bệnh liền khỏi. Sau Nhật Duật mất, thọ 77 tuổi,  thế là được đủ 6 kỷ lẻ 5 năm".

Nhắc đến sự ra đời của Trần Nhật Duật, Lịch triều hiến chương loại chí có chép: "Ông là con thứ 6 của Trần Thái Tông. Khi chưa sinh ông, có một đạo sĩ vào đền cầu tự cho vua, vua mộng thấy Thượng đế sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh. Sau sinh ra ông, ở cánh tay có hai chữ “Chiêu Văn”. Lúc lớn lên, ông rất thông minh, có nhiều chí lược, thông hiểu sử sách, đánh giặc rất giỏi…

tran-nhat-duat-va-giai-thoai-ve-vi-tien-dong-giang-sinh-noi-ha-the-6
Tranh minh họa

Ông là người nhã nhặn, có độ lượng, mừng giận không lộ ra sắc mặt; lại thông hiểu kinh điển, giỏi âm luật; người đời ấy khen là hiểu biết rộng rãi. Những văn thư của triều đình đều do ông thảo ra. Ông lại thông tiếng các nước phiên, khi tiếp người Tống nói chuyện được suốt ngày. Sứ nước Chiêm, sứ các nước Man và người Sách Mã Tích đến, ông đều tiếp đãi theo tục nước họ và cùng họ nói chuyện… Ông là thân vương quý hiển, trải thờ bốn triều, ba lần lĩnh chức ở trấn lớn”.

Cho đến nay, chính sử và một số tác phẩm khảo cứu không cho biết thông tin về thân mẫu của Trần Nhật Duật. Song theo bản thần tích ở đền thôn Miễu, xã Mạt Lăng, huyện Tây Chân (nay thuộc Nam Trực, Nam Định), có nhắc đến những chi tiết thú vị về người mẹ của ông như sau: 

Vào năm Kỷ Hợi  (1239), một lần Trần Thái Tông đi tuần du qua phủ Thiên Trường, xa giá dừng lại nghỉ ở làng Miễu. Nghe tin vua đến, dân chúng đem lễ vật tới dâng và để tỏ lòng sùng kính, Trần Thái Tông mới hỏi chuyện nông tang, và điều ngạc nhiên là người trả lời không phải là các bô lão, chức dịch trong vùng mà là một cô gái trẻ được cử ra hầu đáp với hoàng đế. 

Cô thôn nữ đó tên là Vũ Thị Vương, còn gọi là Vượng Nương hình dung yểu điệu, nhan sắc tuyệt trần, giỏi nghề canh cửi, chăm việc ruộng đồng, nổi tiếng cả vùng vừa đẹp người vừa đẹp nết.  

Thấy cô gái trả ứng đối thông minh mẫn tiệp, hiểu biết sâu rộng, nhất chuyện nghề nông nên nhà vua thấy rất quý mến. Ngay sau ngày hôm đó, Trần Thái Tông cho làm lễ, đón Vũ Thị Vượng về cung, lập Cung phi thứ năm, hiệu là Vũ phi.

Khi Trần Nhật Duật ra đời được mẹ hết lòng chăm sóc, nuôi dạy nên từ nhỏ đã nổi tiếng là hoàng tử hiếu học và sớm lộ thiên tri, hiểu biết nhiều thứ. Lớn lên thì trở thành người thông minh, tính tình nhã nhặn lại đa tài,  đủ cầm kỳ thi họa, thích âm nhạc diễn xướng, đặc biệt giọng tiếng các dân tộc thiểu số và các nước lân bang.

Cũng nhờ am hiểu phong tục và nói được tiếng các dân tộc thiểu số nên cuối năm Canh Thìn (1280), khi ấy Trần Nhật Duật mới 25 tuổi đã dẹp được cuộc nổi loạn mà không tốn một mũi tên nào tại Đà Giang thuộc Tây Bắc của đất nước khiến viên chúa đạo là Trịnh Giác Mật phải nể phục quy hàng.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép: Mật mời ngồi, Nhật Duật biết nói tiếng và hiểu phong tục các nước, cùng với Mật ăn bằng tay,  uống bằng mũi. Người Man thấy vậy thích lắm. Khi Duật về quân doanh, Mật liền đem gia thuộc đến xin hàng. Mọi người thấy vậy đều kinh ngạc, vui mừng, vì không hề mất một mũi tên mà vẫn dẹp yên được sự phản loạn ở Đà Giang".

Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét về Trần Nhật Duật: “Ông là bậc thân vương tôn quý, trải quan bốn triều, ba lần coi giữ trấn lớn, ở nhà không ngày nào không mở cuộc chèo hát, bày trò chơi, mà không ai cho là say đắm, so với Quách Tử Nghi cùng xa cực xỉ mà không ai chê, ông cũng gần được như thế” (Đại Việt Sử Ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên, Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, NXB văn học 2009, trang 368).

Giai thoại về đội quân "hổ thần" giúp Trần Nhật Duật phá giặc

Trần Nhật Duật là người ở trong thời kỳ rực rỡ nhất của triều đại nhà Trần, người có công lớn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Đại Việt hùng mạnh. 

Còn nhớ, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 năm Ất Dậu (1258) và lần thứ 3 năm Mậu Tý (1288), Trần Nhật Duật đã góp công lớn. Ông sử dụng đạo quân người Tống chạy sang quy phục để đánh trận khiến quân Nguyên hoảng sợ trong trận Hàm Tử Quan. 

Chưa dừng lại, ông còn vâng lệnh vua đánh giặc Man ở sách A Lộc, đánh quân Chiêm ở phía Nam nên được triều đình phong làm Thái úy Quốc công, rồi làm thanh Thái sứ, tước Đại vương. Đánh giá về ông, Đại nam quốc sử diễn ca tóm lược như sau: Trần Hưng Đạo đã anh hùng/Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều.

Trong sự nghiệp cầm binh của ông, dân gian lưu truyền gia thoại như sau: Cuối năm Giáp Thân (1284), vua Nguyên là Hốt Tất Liệt sai con trai là Thái tử Thoát Hoan mang 50 vạn quân sang xâm lược Đại Việt. Khi hành quân sang nước ta, chúng phao tin là 80 vạn quân. 

Thế giặc mạnh, quân ta chống không nổi nên quyết định rút lui chiến lược nhằm bảo toàn lực lượng, tránh những đòn mạnh nhất của kẻ thù đang lúc hung hăng.

tran-nhat-duat-va-giai-thoai-ve-vi-tien-dong-giang-sinh-noi-ha-the-7
Trần Nhật Duật - danh tướng độc đáo và đặc sắc bậc nhất trong lịch sử Việt Nam

Khi ấy, Trần Nhật Duật được trao trọng trách chỉ huy một cánh quân lớn lập phòng tuyến sông Lô để chặn cản bước tiến của giặc. Tại trận chiến ở trại Thu Vật (nay là Tuyên Quang) gặp thế bất lợi Trần Nhật Duật đã phải dẫn quân lui về Bạch Hạc (nay là Phú Thọ). 

Quân giặc thấy vậy hung hãn đuổi theo khiến quân ta rơi vào tình thế nguy cấp. Đến vùng Phan Lương (nay là Bạch Lưu, huyện Lập Thạch) thì bất ngờ một đội quân từ trong núi Long Động đổ ra đánh vào sườn quân Nguyên.

Thấy cánh hữu của giặc gươm giáo lộn xộn, cờ xí nghiêng ngả, Trần Nhật Duật cho rằng quân hương dũng của thổ hào địa phương muốn lập công đánh giặc nên liền cho quân quay lại hiệp lực. Giặc Nguyên hốt hoảng tưởng trúng kế mai phục, lại không rõ binh lực đối phương ra sao nên kinh hãi bỏ chạy. Quân ta thừa thắng xông lên dồn địch xuống quá Bạch Hạc.

Sau trận đánh, Trần Nhật Duật khi thu quân cho đóng trại nghỉ ngơi thì không thấy đội hương binh kia bèn gọi một viên tùy tướng lại hỏi: "ngươi đến dãy núi kia tìm thủ lĩnh đội hương binh về đây gặp ta". 

Viên tùy tướng tuân lệnh thúc ngựa phi đi tìm. Khi tới làng Bạch Lưu nằm dưới chân núi thì chứng kiến cảnh lạ kỳ, một đàn hổ đen đông tới ngàn con lũ lượt nối đuôi nhau đi lên núi. Quá kinh ngạc, viên tướng nọ quay đầu ngựa về thuật lại sự việc. 

Trần Nhật Duật nghe xong thất kinh bèn mời một số phụ lão ở vùng đến hỏi. Một ông lão cho hay: "Bẩm vương gia, đấy là thừa tướng Lữ Gia hiển linh hộ quốc chứ không có đội quân thổ hài dân binh nào cả. Còn hố cũng không phải là hổ thực". 

Ông lão này còn kể rằng, xưa kia vào thời nhà Triệu, khi quân Hán tiến đánh, thừa tướng Lữ Gia vốn là người Việt, quê ở Châu Loan (nay là Thanh Hóa) đã bỏ kinh đô chạy về lập căn cứ ở núi Long Động chống giặc. Sau đó vì thua trận mà mất, dân chúng thương tiếc lập đền thờ tôn làm thần núi Long Động. Ông thường hiển linh giúp dân cứu đời.

Trần Nhật Duật nghe chuyện lạ liền sai người chép lại. Đến khi thắng giặc Nguyên Mông thì cho người trở lại núi Long Động tôn tạo miếu thờ Lữ Gia. Đồng thời sai người sưu tầm, viết lại thần tích, thu lượm các truyện truyền kỳ có liên quan để lưu truyền cho đời sau.

Xem thêm: Trần Nhật Duật - danh tướng không có khuyết điểm để chê

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận