Tấm lòng son sắt với nước của Thoại Ngọc Hầu và nỗi oan khuất trăm năm

Thoại Ngọc Hầu là 1 trong những công thần khai quốc của nhà Nguyễn, thế nhưng lại chịu án oan ngay khi vừa nhắm mắt khiến con cháu điêu linh. Và mãi đến đời Khải Định mới được rửa hết ô nhục.

Đỗ Thu Nga
07:00 14/08/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Thoại Ngọc Hầu là ai?

Thoại Ngọc Hầu (1761 - 1829) tên thật là Nguyễn Văn Thoại. Ông sinh ra tại xóm An Trung, làng An Hải, thuộc huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam thời Nguyễn (nay là phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng). Cha ông là Nguyễn Văn Lượng, sinh thời làm chức từ thừa - một chức quan nhỏ chuyên lo việc tế tự các đền miếu do nhà nước lập ra. Mẹ ông là Nguyễn Thị Tuyết, vợ thứ của ông Lượng.

Nguyễn Văn Thoại sinh ra và lớn lên trong lúc Trịnh - Nguyễn phân tranh liên miên. Tiếp theo là phong trào Tây Sơn nổi dậy. Vì thế, mẹ ông phải dẫn ông và 2 em chạy vào Nam năm 1776. Cuối cùng định cư ở làng Thới Bình trên cù lao Dài, nằm giữa sông Bang Tra và sông Cổ Chiên, nay thuộc địa phận huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

Vào năm 17 tuổi (năm 1777), ông đến xin đầu quân  Nguyễn tại Ba Giồng (Định Tường). Năm 1778, ông có mặt trong trận chiến đấu chiếm lại thành Gia Định. 

Năm 1782, quân Tây Sơn đánh bại quân chúa Nguyễn ở cửa Cần Giờ, ông phò chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy về Ba Giồng (Định Tường). Từ năm 1784 đến năm 1785, ông đã theo chúa Nguyễn sang Xiêm La hai lần để cầu viện.

thoai-ngoc-hau-la-ai-va-vi-sao-bi-ham-oan-suot-may-doi-vua-nguyen

Từ năm 1787 đến năm 1789, Nguyễn Văn Thoại có công trong việc thu lại thành Gia Định nên được phong chức Cai cơ. Năm 1791, ông được cử là Trấn thủ hải khẩu Tắc Khái (tức cửa Lấp thuộc Bà Rịa).

Năm 1792, ông lại sang Xiêm La, trên đường về đã đánh tan bọn cướp biển Bồ Đà (Giavanays, người Java). Liên tục các năm 1796, 1797, 1799 ông đều được chúa cử sang nước Xiêm La.

Năm 1800, Nguyễn Văn Thoại được phong Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân, phối hợp với Lào đánh quân Tây Sơn ở Nghệ An. Nhưng đến năm 1801, thì ông bị giáng cấp, xuống chức Cai đội quản suất Thanh Châu đạo, vì tự ý bỏ về Nam mà không đợi lệnh trên.

Năm 1802, chúa Nguyễn thống nhất đất nước, lên ngôi vua hiệu là Gia Long. Trong dịp tặng thưởng các bề tôi có công, Nguyễn Văn Thoại cũng chỉ được phong Khâm sai Thống binh cai cơ, nhận nhiệm vụ ra thu phục Bắc Thành rồi được giữ chức Trấn thủ ở nơi đó. Ít lâu sau ông nhận lệnh làm Trấn thủ Lạng Sơn, rồi lại vào Nam nhận chức Trấn thủ Định Tường (1808).

Năm 1812, ông sang Cao Miên đón Nặc Ông Chân về Gia Định. Năm 1813, ông hộ tống Nặc Chân về nước và ở lại nhận nhiệm vụ bảo hộ Cao Miên.

Năm 1816, Thoại Ngọc Hầu được triệu về Huế, Năm 1817 nhậm chức trấn thủ trấn Vĩnh Thanh. Cũng trong năm đó, ông lập 5 làng trên cù lao Dài. 

Kênh Thoại Hà được khởi công năm 1818 dài 30km; Kênh Vĩnh tế dài hơn 87km được làm từ năm 1819 - 1824. 

thoai-ngoc-hau-la-ai-va-vi-sao-bi-ham-oan-suot-may-doi-vua-nguyen-9
Lăng Thoại Ngọc Hầu

Năm 1823, ông lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế. Năm 1825 ông cho đắp con đường từ Châu Đốc lên Lò Gò (tức thị trấn Angkor Borei ngày nay) – Sóc Vinh nối các làng với nhau rất tiện lợi trong việc đi lại cho nhân dân; Lộ Núi Sam–Châu Đốc, dài 5km, làm từ năm 1826 đến 1827, huy động gần 4.500 nhân công. Làm xong, ông cho khắc bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng tại núi Sam năm 1828 để kỷ niệm. Ngày nay, tấm bia không còn, nhưng còn văn bia trong sử sách. 

Những công trình trên được xem là cơ sở để người Việt đặt chủ quyền lâu dài trên vùng đất mới này. Cũng vì có nhiều công lao mà ông được vua nhà Nguyễn phong là Thoại Ngọc Hầu, bố mẹ ông cũng được phong tước hầu.

Nguyễn Văn Thoại mất vì bệnh tại nhiệm sở Châu Đốc vào ngày 6/6 Âm lịch năm Kỷ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi. Ông được an táng trong lăng tại chân núi Sam. Mộ ông nằm giữa, hai bên là bà chính thất Châu Thị Tế và một bà thứ nhất Trương Thị Miệt. Văn bia tại ngôi mộ của ông được dịch như sau:

"Hoàng Việt, Hiển khảo, Thống chế án thủ Châu Đốc đồn, lãnh Bảo Hộ Cao Miên quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ, được ban Nhị cấp, thưởng Kỷ lục lần thứ tư, và được truy tặng Tráng Võ tướng quân, Trụ quốc Đô thống, tên thụy là Võ Khác. Ông họ Nguyễn, tên húy là Thoại. Bia này lập năm Minh Mạng thứ 10 (1829) do con trai là Nguyễn Văn Lâm".

Nỗi oan khuất trăm năm của Thoại Ngọc Hầu

Như đã chia sẻ, năm 1829, Thoại Ngọc Hầu mất trong sự thương tiếc của vua Minh Mạng. Gia quyến của ông không những được truy thăng chức vụ, thưởng nhiều tiền, gấm lụa mà con trai trưởng của ông cũng được tập ấm chức Ân kỵ úy. 

Thế nhưng ngay sau đó, bao nhiêu công lao của Thoại Ngọc Hầu bị "phủi" sạch khi vua Minh Mạng nhận được tờ biểu tâu rằng: Trong thời gian làm Bảo hộ Chân Lạp, Thoại Ngọc Hầu thường bắt dân Chân Lạp đi lấy gỗ táu đem nộp nhưng không cấp tiền gạo mà triều đình quy định phát cho họ. Thậm chí tờ biểu còn nói, Thoại Ngọc Hầu bắt dân Chân Lạp phục dịch các việc riêng của mình.

thoai-ngoc-hau-la-ai-va-vi-sao-bi-ham-oan-suot-may-doi-vua-nguyen-7
Vua Minh Mạng

Nghe đến đây, vua Minh Mạng liền xuống chiếu tịch thu gia sản, truy giáng Thoại Ngọc Hầu từ hàm nhị phẩm xuống thất phẩm, tước quyền tập ấm của con trai ông. Gia sản sung công quỹ.

Tờ biểu đó đã khiến vua Minh Mạng ghét Thoại Ngọc Hầu đến nỗi vào tháng 7/1830, khi một vị quan ở Gia Định dâng sớ xin cấp phu trông coi mộ ông, nhà vua thẳng thừng từ chối. Đến năm 1932, không biết có phải vì thấy quá nặng tay với công thần không mà Minh Mạng xuống dụ rằng: Tội của Thoại nếu còn sống thì phải đem chém đầu để bêu. Nhưng nay đã chết thì xét có công lao nên chỉ giáng xuống hàm ngũ phẩm, tước quyền tập ấm của con, tịch thu gia sản, còn sắc phong cho cha mẹ Thoại thì không bị thu hồi.

Vua Minh Mạng cũng chỉ biết Thoại Ngọc Hầu bị oan sau khi đưa một sắc thư sang cho vua Chân Lạp, đại ý khuyên ông ta không nên vì một viên quan hư hỏng mà bận lòng, hãy cứ nên kính cẩn giữ lễ với hoàng đế nhà Nguyễn. Bởi ông quan bảo hộ quấy nhiễu dân ấy đã bị trị tội, tiền còn thiếu của dân trong việc lấy gỗ thì sẽ ban đủ. Vua Chân Lạp liền dâng biểu tâu rõ là không cần cấp tiền gạo cho việc ấy nữa, vì quan bảo Bộ Nguyễn Văn Thoại đã cấp đủ cho dân rồi.

Khi nhận được tấu của vua Chân Lạp, Minh Mạng đã đưa kẻ tấu sai ra xét xử, nhưng vẫn kết tội Thoại là bắt dân Chân Lạp phục dịch việc riêng nên không giảm án cho ông.

Đến năm 1835 khi cuộc tạo phản của Lê Văn Khôi được dẹp yên, người ta mới phát hiện có sự tham gia của con rể Thoại là Võ Vĩnh lộc. Cái tên Thoại Ngọc Hầu lại một lần nữa bị vua xuống lệnh tra xét về mối quan hệ với nghịch đảng. 

Nhưng thật may Vĩnh Lộc chỉ cưới con gái nuôi của Thoại Ngọc Hầu chứ không phải con đẻ. Vì thế vị công thần đã chết không bị khép thêm tội. Tuy nhiên, việc liên đới cũng đủ làm cái tên của ông bị bôi đen thêm lần nữa trước mắt triều đình. Nó làm cho cách nhìn của Minh Mạng với ông ngày càng thiên kiến, sai lệch, khiến bao nhiêu công lao trước đó bị quên lãng.

thoai-ngoc-hau-la-ai-va-vi-sao-bi-ham-oan-suot-may-doi-vua-nguyen-3
Tượng Thoại Ngọc Hầu đặt tại Bảo tàng Cổ vật Thoại Ngọc Hầu bên cạnh khu lăng mộ

Tội nghiệp sau khi thác vẫn chưa buông tha Thoại Ngọc Hầu. Vào tháng 3/1838, cháu họ ông là Nguyễn Văn Quang, đang là tù phạm ở Gia Định, đã tham gia vào âm mưu vượt ngục chiếm thành, phản lại triều đình. Quang bị xử lăng trì. Nguyễn Văn Thoại vì thế mà bị truy đoạt các văn bằng, sắc phong đã cấp, tước luôn cả hàm ngũ phẩm.

Với liên hoàn tội danh từ trên trời rơi xuống này, con cháu của vị công thần phải sống trong cảnh khổ cực. Con trưởng của ông là Nguyễn Văn Tâm bỏ đi biệt tích, con thứ là Nguyễn Văn Minh sống cuộc đời nghèo khổ như mọi thứ dân.

Oan khuất được giải ở thời Khải Định

Nỗi oan khuất sau khi thác của Thoại Ngọc Hầu kéo dài mấy triều vua. Đến năm 1880, dưới thời Tự Đức, đền Trung Nghĩa thờ những người có công với triều đình được khánh thành ở Huế, khi đó Bộ Lễ tâu vua đưa thêm 1.532 người vào thờ, trong đó có Nguyễn Văn Thoại. Vua Tự Đức chuẩn y. Nghĩa là công lao của Thoại Ngọc hầu đã được nhớ đến, tuy chưa được ghi nhận đúng mức, nhưng nỗi oan của ông vẫn chưa được cởi bỏ.

Và phải mãi đến năm 1924 - hai thập kỷ trước khi triều Nguyễn kết thúc thì nỗi oan khuất của Thoại Ngọc Hầu mới được rửa sạch. Ông được phong thần, danh hiệu là Đoan Tức Dực Bảo Trung Hưng Tôn thần.

Năm 1943, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại lại sắc phong cho ông là Quang Ý Dực Bảo Trung Hưng Trung Đẳng thần.

Thế nhưng chẳng cần những sắc phong đó bởi với người dân vùng sông Hậu đã coi Thoại Ngọc Hầu là vị phúc thần từ ngày ông còn sống. 

Xem thêm: Chân tướng vụ vua Minh Mạng san bằng mộ Lê Văn Duyệt, viết lời cay đắng

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận