Chân tướng vụ vua Minh Mạng san bằng mộ Lê Văn Duyệt, viết lời cay đắng

Có ghi chép cho rằng, Lê Văn Duyệt phản đối Minh Mạng lên ngôi, bảo vệ tín đồ Công giáo... từ đó dẫn đến việc thường xuyên xung đột với vua. Cuối cùng ông bị vua Minh Mạng san bằng mộ, viết lời cay đắng.

Đỗ Thu Nga
11:12 13/08/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Lê Văn Duyệt (1763 hoặc 1764 - 28/8/1832) còn gọi là Tả Quân Duyệt. Ông là 1 trong các chỉ huy chính của quân đội chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn. Kết thúc chiến tranh, nhà Nguyễn thành lập, ông trở thành 1 đại thần, phục vụ 2 triệu Gia Long (Nguyễn Ánh) và Minh Mạng. 

Cho đến thời điểm hiện tại, khi nhắc đến Lê Văn Duyệt, hầu hết đều cho rằng việc vua Minh Mạng san bằng mộ của ông và dựng lên đó một cột đá khắc dòng chữ Hán "Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (chỗ hoạn quan lộng quyền là Lê Văn Duyệt chịu tội chết) là bởi:

Lê Văn Duyệt phản đối việc nối ngôi của Minh Mạng. Đồng thời bảo vệ các tín đồ Công giáo khỏi chính sách bế quan tỏa cảng và trọng Nho giáo của nhà vua. Những việc này đã khiến ông thường xuyên xảy ra xung đột với nhà vua và dẫn đến việc triều đình đã vạch tội và cho phá mộ sau khi Lê Văn Duyệt mất. 

Cũng vì việc này mà người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi đã nổi dậy chống lại triều đình. Sau đó cuộc nổi dậy bị dập tắt. Lê Văn Duyệt tiếp tục bị truy tội đến mãi đời Thiệu Trị thì mới được xét lại và được phục hồi danh dự.

chan-tuong-vi-vua-minh-mang-san-bang-mo-le-van-duyet-6
Chân dung Tả quân Lê Văn Duyệt

Quan niệm về Minh Mạng và Lê Văn Duyệt

Nhà văn Sơn Nam – người chuyên khảo cứu về vùng đất Nam bộ – đã viết về Lê Văn Duyệt trong vấn đề vua Gia Long chọn người nối ngôi:

“Ông dám nói thẳng, để can gián vua Gia Long khi chọn người kế vị… Ba năm trước khi mất Gia Long đã gọi công thần để bàn bạc, với ý kiến tiên quyết là dành ngôi cho Hoàng Tử Đảm. Phần lớn công thần đều không đồng ý, vì Hoàng Tử Đảm (sau là vua Minh Mạng) là con dòng thứ. Họ muốn chọn con Hoàng Tử Cảnh (cháu nội vua Gia Long), với lý do Hoàng Tử Cảnh đã khổ nhọc trong buổi phục quốc. Gia Long bài bác, lấy cớ đứa cháu nội ấy còn nhỏ tuổi và xưa nay con thừa hưởng sự nghiệp của cha, Hoàng Tử Đảm là con thì mặc nhiên nối nghiệp cha! Lê Văn Duyệt đã chống đối việc thừa kế này rất quyết liệt, vì vậy sau khi lên ngôi, Minh Mạng đưa ông vào đất Gia Định xa xôi, hòng cô lập, đề phòng âm mưu gây bè kết cánh để đảo chánh!”.

Trong một tác phẩm khác, nhà văn Sơn Nam có viết về con người Lê Văn Duyệt như sau: "Trong các vị Tổng Trấn Gia Định thành, Lê Văn Duyệt nổi bật hẳn. Là người ít học, cậy công phò Nguyễn Ánh, họ Lê khinh lờn vua Minh Mạng và đã chống đối lại vua Minh Mạng nối ngôi cha".

chan-tuong-vi-vua-minh-mang-san-bang-mo-le-van-duyet-5
Vua Minh Mạng

Dưới góc độ của một nhà nghiên cứu lịch sử, PGS. TS. Nguyễn Phan Quang nhận xét: “Minh Mạng đã xem Lê Văn Duyệt như là một trong hai cái gai chọc vào mắt mình (tức Duyệt và Thành). Nguồn gốc của sự mâu thuẫn đó là: Lê Văn Duyệt phản đối việc Minh Mạng nối ngôi Gia Long và muốn lập con Hoàng Tử Cảnh” . Sau nhiều năm suy nghĩ và dọn dẹp dư luận nhưng khi đưa ra quyết định truyền ngôi “Gia Long vẫn không tránh khỏi những phản ứng đáng lo ngại trong đám triều thần, trước hết là Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt: Nhưng cho đến lúc này, Gia Long vẫn kiên trì che giấu ý đồ chính trị của mình. Khi Thành và Duyệt thắc mắc về quyết định chọn Minh Mạng, Gia Long đã giải thích với họ như sau: Khi người ta chết mà còn để lại những món nợ trên đời, thì chủ nợ thường tìm đến hỏi nợ ở con mình chứ không phải ở cháu mình. Vì vậy, Trẫm không thấy sai trái gì khi chọn một đứa con mà không chọn một đứa cháu".

Phản ứng "trong triều ngoài nội" khi Gia Long quyết định chọn Hoàng Tử Đảm làm người kế vị đã được ông Nguyễn Phan Quang dẫn lời Phan Thúc trực, tác giả tác phẩm Quốc sử di biên: “Những lời phản đối dậy lên như ong".

Đối chiếu trong Đại Nam thực lục

"Soi" sách Đại Nam thực lục - bộ chính sử lớn nhất và  quan trọng nhất dưới triều Nguyễn để là làm rõ vấn đề: "Lê Văn Duyệt chống đối quyết liệt việc vua Gia Long chọn Hoàng tử Đảm kế vị".

Cụ thể, ngày Quý Sửu tháng Hai năm Tân Dậu (1801) Đông Cung Nguyên Soái Quận Công Cảnh đang giữ chức Lưu Trấn Gia Định bị bệnh đậu mùa chết, hưởng thọ 22 tuổi. Đông Cung Cảnh có hai người con là Mỹ Đường (Hoàng Tôn Đán) và Mỹ Thùy.

Sau khi Đông Cung Cảnh mất một thời gian khá lâu mà chưa thấy Gia Long chọn Hoàng tử nào vào chức Đông Cung nên vào tháng 6 năm Nhâm Thân (1812) Nguyễn Văn Thành dâng thư phong kín nói bốn điều, trong đó điều đầu tiên: “xin sớm dựng Thái Tử và phong tước hiệu cho các Hoàng Tử để yên lòng người”. Vua khen và nhận.

chan-tuong-vi-vua-minh-mang-san-bang-mo-le-van-duyet-9

Gần 2 năm sau vào ngày Ất Mùi, tháng Hai năm Giáp Tuất (1814) Hoàng Hậu Tống Thị Băng (mẹ Đông Cung Cảnh) thọ 54 tuổi. Đến ngày Canh Tuất làm lễ thành phục, vua sai “Hoàng tử dâng cơm tế điện. Trước kia Hoàng Tử thứ tư mới lên ba tuổi, vua cho Hoàng Hậu nuôi làm con mình. Hoàng Hậu đòi làm giấy khoán (theo thế tục, phàm nuôi con người làm con mình thì phải có khế khoán quá phòng). Vua sai Lê Văn Duyệt viết giấy đưa cho. Hậu giao cho cung tỳ là Nguyễn Thị Lê cất giữ. Từ đấy Hoàng Tử thứ tư thường vào chầu ở Đại Nội, làm con của Hoàng Hậu, thường gọi là mẹ. Đến khi Hoàng cả là Cảnh, Hoàng hai là Hy, Hoàng ba là Tuấn nối nhau mất, Hoàng tư lấy thứ bậc là lớn nhất, duy đời trước phái trưởng phần nhiều khó nuôi cho nên không muốn gọi là trưởng. Đến nay làm lễ tang Hoàng Hậu, bầy tôi có người bàn lấy Hoàng Tôn Đán (con Hoàng Tử Cảnh tức Mỹ Đường) làm chủ tự. Vua dụ rằng: ‘Hoàng tư từng làm con của Hoàng Hậu đã có giấy tờ, nên sai làm chủ tự, việc lớn của nhà nước không nên câu nệ theo lễ đích tôn thừa trọng như nhà thường’. Nguyễn Văn Thành cho thế thì văn tế khó gọi. Vua bảo rằng: ‘Con theo mệnh cha tế mẹ là việc danh chính ngôn thuận, có gì mà không nên’. Bấy giờ mới bàn định. Nguyễn Văn Thành tỏ ý không bằng lòng” .

Đến tháng 12 năm Ất Hợi (Gia Long năm thứ 14- Dương Lịch năm 1816) “Vua tuổi đã cao mà chưa quyết định người nối ngôi. Hoàng Tử thứ tư hiền và lớn hơn cả, vua đã để ý. Bầy tôi đều có lòng theo. Riêng một Nguyễn Văn Thành là người ngạo mạn kiêu căng, muốn được vua nhỏ tuổi, không thích vua lớn tuổi. Một hôm mời các quan trong triều uống rượu ở nhà, nói lên rằng: ‘Hoàng Tôn Đán nối ngôi, tôi sắp tâu xin lập đây’. Trong đám ngồi không ai dám nói gì. Trịnh Hoài Đức sợ vạ lây mình, bèn nói rằng: ‘Việc lớn của nhà nước, quyết định do ở lòng vua, nếu người bầy tôi định kế riêng, tham lấy công to thì tội lại lớn’. Văn Thành bèn thôi. Sau đó có người nói đến tai vua. Vua giận nói rằng: ‘Hắn muốn dựng vua nhỏ để dễ khống chế, ngày sau có thể chẹt họng vỗ lưng chăng. Ta há tối tăm nhầm lẫn không biết đắn đo nên chăng, vội nghe lời hắn mà không vì Xã Tắc chọn người sao!’. Từ đó hễ cứ Văn Thành vào yết kiến là chỉ xin dựng Thái Tử. Vua nín lặng. Văn thành tự biết không được thỏa ý, càng thêm ngờ sợ".

Nguyễn Văn Thuyên (con Nguyễn Văn Thành) có làm 1 bài thơ “lời rất bội nghịch” đã bị Thiêm Sự Hình Bộ Nguyễn Hựu Nghi sai Nguyễn Trương Hiệu đem thơ ấy tố cáo với Lê Văn Duyệt. Do “Duyệt với Thành vốn không ưa nhau bèn đem thơ phản nghịch dâng lên”.

Ngày Canh Dần tháng Ba năm Bính Tý (1816) “đặt triều nghi ở điện Cần Chánh, triệu bầy tôi đến, đều cho ngồi. Dụ rằng: ‘Trẫm nay làm việc đã mỏi, rất lo đến kế lớn của Xã Tắc. Thái Tử lên ngôi chừ nhị của nước, cần phải sách lập để chính thống mà giữ bền gốc nước’. Bèn triệu Thượng Thư Lại Bộ là Trịnh Hoài Đức đến trước giường ngự, sai viết: ‘Lập Hoàng Tử Hiệu làm Hoàng Thái Tử’ để đưa bầy tôi xem. Vua nói: ‘Ai đồng ý thì ký tên vào’. Quần thần đều nói: ‘Ý thánh định trước, thực là phúc không cùng của Xã Tắc, bọn thần noi theo mệnh lệnh’.”

Vua thung dung dụ rằng: “Cha truyền ngôi cho con là đạo thường xưa nay. Từ đời Hán đời Đường trở xuống, ít người không theo. Hoặc có kẻ nói ‘đích tôn thừa trọng’, ta thực không hiểu thuyết ấy. Duy có vua Thái Tổ nhà Minh mê hoặc theo lời nói của Lưu Tam Ngô mà bỏ con là Yên Vương để lập đích tôn là Doãn Văn, rốt cùng sinh tai họa. Phàm biết con không ai bằng cha. Nếu vua Thái Tổ nhà Minh cho Yên Vương là hiền mà bấy giờ họp ngay đình thần, nói rõ là lập Thái Tử, thì một lời nói ra, ai dám không theo! Như thế thì làm sao sinh loạn được”. Quần thần đều phục.

Đến lúc này Nguyễn Văn Thành vì con mà bị liên can, nên không còn ai lên tiếng chống đối việc lập Thái Tử nữa. Tháng Năm, năm Đinh Sửu (1817) Nguyễn Văn Thành tự sát.

chan-tuong-vi-vua-minh-mang-san-bang-mo-le-van-duyet-0
Đền thờ Tả quân Lê Văn Duyệt trong Lăng Ông Bà Chiểu

Vào ngày Tân Mão, tháng Chạp, Gia Long năm thứ 18 (Dương Lịch 1820), triệu Hoàng Thái Tử và các Hoàng Tử, Tước Công và các quan đại thần là bọn Lê Văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng vào hầu. Bày ấn ngọc, cờ, gươm ở trên án vàng trước giường ngự. Dụ Hoàng Thái Tử rằng: “Đấy là cơ nghiệp gian nan của Trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thận giữ gìn” .

Ngày Kỷ Hợi, tháng Chạp năm Kỷ Mão (Dương Lịch 1820) “Vua ốm nặng. Triệu Hoàng Thái Tử và các Hoàng Tử, Tước Công cùng các đại thần là bọn Lê Văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng cùng nhận di chiếu Sai Lê Văn Duyệt kiêm giám năm dinh quân Thần Sách Ngày Đinh Mùi vua băng ở điện Trung Hòa. Thọ 58 tuổi".

Kết luận

Sau khi đối chiếu với Đại Nam thực lục thì có thể thấy: Xuyên suốt cuốn sách này không hề tìm thấy chỗ nào ghi chép việc Lê Văn Duyệt chống đối vua Gia Long chọn Hoàng Tử Đảm làm người kế vị ngôi vua, mà chỉ thấy một mình Nguyễn Văn Thành phản đối mà thôi. 

Nếu Lê Văn Duyệt có tham gia phản đối việc sách lập ấy thì chắc gì khi gần lâm chung, vua Gia Long dám chọn Lê Văn Duyệt là "cố mệnh lương thần" và càng không bao giờ dám giao cho Lê Văn Duyệt "kiêm giám năm dinh quần Thần Sách".

Thêm một yếu tố nữa chứng minh Lê Văn Duyệt không phải là người muốn lập con Hoàng Tử Cảnh làm người nối ngôi. Vào tháng Chạp năm Giáp Thân, Minh Mạng năm thứ năm (Dương Lịch 1825) “Ứng Hòa Công Mỹ Đường là con trai của Anh Duệ Hoàng Thái Tử. Trước có người cáo Mỹ Đường là người dâm dật, thông gian với mẹ đẻ là Tống Thị Quyên. Lê Văn Duyệt đem việc tâu kín. Vua sai bắt Thị Quyên giao cho Văn Duyệt dìm chết”. 

Ứng Hòa Công Mỹ Đường bị tước tên khỏi sổ tôn thất. Với vụ án trên, khiến cho Thái Bình Công Mỹ Thùy (em Mỹ Đường) khủng hoảng tinh thần và mất sớm.

Mặc dù Lê Văn Duyệt đã chết vào tháng Tám năm Nhâm Thìn (1832), mãi đến tháng Mười Một năm Ất Mùi (1835) đình thần “đình nghị dâng lên, Duyệt vì lời nói và việc làm bội nghịch, có 7 tội đáng chém” nhưng trong 7 tội danh không có tội nào nói việc Lê Văn Duyệt chống đối việc lập vua Minh mạng lên ngôi cả!

Câu đối:

Y kỳ thực lục, cứ kỳ chánh sử, khảo nghiên thấu triệt

Hiệu thử dị đồng, đính thử ngộ nghi, chú giải thận tường

Xem thêm: Vua Minh Mạng đã làm thế nào để dẹp nạn "sâu mọt" đục khoét của dân?

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận