Huyền Trân công chúa: Từ cuộc hôn nhân ngoại giao đến cuộc giải cứu khỏi giàn hỏa thiêu đầy kịch tính

Cuộc đời Huyền Trân công chúa có nhiều điều bí ẩn mà đến nay chưa giải mã được hết. Chuyện được nhắc đến nhiều nhất chính là cuộc hôn nhân chính trị với vua Chiêm Thành và cuộc giải cứu khỏi giàn hỏa thiêu đầy kịch tính.

Đỗ Thu Nga
07:00 12/09/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Cuộc hôn nhân ngoại giao của Huyền Trân công chúa

Huyền Trân Công chúa (1287 - 9/1/1340) là công chúa nhà Trần, Hòa thân công chúa. Bà là con gái của Trần Nhân Tông, em gái của Trần Anh Tông, chính thê của vua Chế Mân. Chuyện về Huyền Trân công chúa được truyền tụng trong dân gian, không chỉ vì lý do chính trị mà còn về khía cạnh văn hóa thơ, ca cũng như nghệ thuật sân khấu. Điều này khiến bà trở thành công chúa nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam.

Về thân thế của Huyền Trân công chúa: Không rõ tên thật của bà nhưng theo dã sử ở Đền thờ Huyền Trân công chúa tại Huế thì bà được cho là hạ sinh vào năm 1289, mẹ có thể là Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng hậu - trưởng nữ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Song cũng có khả năng bà là con gái của Tuyên Từ hoàng hậu - em gái của Khâm Từ Hoàng hậu.

huyen-tran-cong-chua-va-cuoc-giai-cuu-khoi-gian-hoa-thieu-3
Huyền Trân công chúa vốn là người thông minh, xinh đẹp

Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu. Vua Trần có ở lại trong cung của Chế Mân gần 9 tháng. 

Khi ra về, Thái thượng hoàng có hứa gả con gái cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là Vương hậu Tapasi, người Java (Indonesia ngày nay).  Sau đó nhiều lần Chế Mân cử người sang hỏi về việc hôn lễ nhưng nhiều quan lại nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc vương Trần Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành. Đặc biệt đến năm 1305, khi Chế Mân đề nghị dâng hai châu Ô, Rí làm của hồi môn thì nhà Trần không thể chối từ nữa.

Đến tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), Huyền Trân công chúa lên thuyền sang Chiêm Thành, Quan quân và dân chúng tiễn công chúa rất đông. Truyền thuyết của người Chăm kế lại, đích thân vua Chế Mân đã ra đón, mặc bộ quần áo trắng, đi giày đen thuê chim thân Garuda. Hôn lễ được cử hành trong 3 ngày.

huyen-tran-cong-chua-va-cuoc-giai-cuu-khoi-gian-hoa-thieu
Vì mối bang giao hai nước mà lên đường sang làm dâu xứ người

Vậy vì sao Chế Mân lại nóng lòng lấy Huyền Trân công chúa? Theo báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh, Chế Mân được xem là bậc minh quân và anh hùng của người Chiêm. Ông là người lãnh đạo quân Chiêm Thành đánh bại thủy quân Nguyên xâm lược (chiến công này có được cũng nhờ Đại Việt đã ngăn được quân Nguyên trên bộ). 

Sau khi lên ngôi, ông ra sức củng cố sự hòa hiếu với các quốc gia lân bang nên được dân chúng quý trọng. Chế Mân muốn cưới Huyền Trân nhằm mục đích phát triển mối bang giao hòa hảo lâu dài với nhà Trần.

Như vậy có thể thấy, đây là cuộc hôn nhân đậm chất chính trị, ngoại giao. Bản thân Huyền Trân công chúa là vợ thứ 3 của vua Chiêm. Ngoài người vợ đầu người Chiêm, vợ thứ hai là Tapasi là người Java, Chế Mân có lẽ cũng muốn giữ hòa khí và bang giao với phía Nam.

Cuộc giải cứu Huyền Trân khỏi giàn hỏa thiêu đầy ly kỳ

Cuộc đời tưởng thế đã là viên mãn, đặc biệt là sau khi về Chiêm Thành được 11 tháng, Huyền Trân sinh được con trai đầu lòng. Nhưng nào ngờ chưa đầy 2 tháng sau, tháng 5 - Đinh Mùi (1307) Chiêm Vương Chế Mân đột ngột qua đời, Huyền Trân trở thành góa phụ. Chế Mân chết khi mới 50 tuổi, trong một trường hợp rất “vô duyên”: Gió lốc bẻ gãy một cành cây trong vườn rơi trúng gáy khi ông đang nằm phơi nắng để trị bệnh ngoài da. Thế tử Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng và có thể cũng để báo tang sự việc này.

Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại: "Theo tục lệ Chiêm Thành, hễ vua mất thì hoàng hậu phải lên giàn hỏa thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, bèn sai bọn Khắc Chung mượn cớ sang viếng tang, rồi nói, nếu hỏa táng công chúa trước thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng trước ra bờ biển chiêu hồn ở chốn ven trời, đón linh hồn (Chế Mân) cùng về rồi hãy lên giàn hỏa thiêu. Người Chiêm nghe theo. (Ra biển), Khắc Chung dùng thuyền nhẹ, cướp lấy công chúa đem về…”.

Nhiều nguồn tư liệu lịch sử cho rằng, Chiêm Thành phát tang vua chậm nên triều đình ở Thăng Long có đủ thời gian chuẩn bị kế hoạch giải cứu Huyền Trân công chúa. Khi đó, Thượng thư Tả bộc xạ Trần Khắc Chung được giao nhiệm vụ thực hiện kế hoạch này.

huyen-tran-cong-chua-va-cuoc-giai-cuu-khoi-gian-hoa-thieu-0
Huyền Trân công chúa về nước theo đường biển

Vì muốn rút chạy bằng đường biển, Trần Khắc Chung đã thuyết phục phía chủ tang đưa Huyền Trân từ kinh đô Đồ Bàn (Vijaya) ra cửa bể là cảng Thị Nại (Sri Vinaya) ở vịnh Quy Nhơn ngày nay, lấy cớ là để đón linh hồn Chế Mân về chiêu hồn rồi sau lễ thiêu sẽ cùng hồn hoàng hậu lên trời.

Theo phong tục các tộc Mã Lai - Đa đảo, biển là nơi rước mời, tống tiễn; Thủy quân của ta chở sứ bộ và công chúa ra khơi về thẳng Đại Việt. Con thuyền đưa Huyền Trân công chúa lênh đênh mãi trên biển cả, bất chấp mọi hiểm nguy, gần một năm ròng mới về đến kinh thành Thăng Long.

Song có nhiều nhà sử học cho rằng, việc công chúa bị đưa lên giàn hỏa thiêu và cuộc giải cứu đầy kịch tính không chính xác. Bởi theo phong tục Chiêm Thành, chỉ Hoàng hậu mới được làm việc này, công chúa Việt không phải là hoàng hậu.

Thêm nữa, việc hỏa táng theo vua chỉ dành cho Hoàng hậu nào tự nguyện và có cả một hội đồng để xét duyệt nên trong suốt lịch sử Chiêm Thành chỉ có vài hoàng hậu được hỏa táng theo vua. Cũng có thông tin cho rằng, không chỉ có chuyện cướp công chúa mà chính Trần Khắc Chung bằng tài ngoại giao đã thuyết phục Chiêm Thành để đưa Huyền Trân về nước.

Nhưng dù là nguyên nhân hay sự thật như thế nào thì hành động giải cứu Huyền Trân công chúa đều ảnh hưởng đến tình bang giao giữa hai nước. Vì nó tạo ra sự thất tín giữa hai quốc gia.

Chuyện tình với Trần Khắc Chung

Trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép: "Khắc Chung dùng thuyền nhẹ, cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô”.

Người đời sau dựa vào đoạn này mà vẽ ra chuyện tình lãng mạn từ thơ văn đến sâu khấu, rằng trai tài gái sắc gặp nhau, vì ngưỡng mộ người hùng liều thân vượt biển cứu mình khỏi giàn hỏa, nàng đã trao trái tim cho chàng.

huyen-tran-cong-chua-va-cuoc-giai-cuu-khoi-gian-hoa-thieu-8
Tranh vẽ đại thần Trần Khắc Chung

Chàng trai muốn kéo dài thời gian ở gần người đẹp nên tìm cách cho thuyền đi loanh quanh, lấy cớ tránh chiến thuyền của Chiêm Thành rồi tránh bão để ghé vào vùng đảo hoang cùng công chúa tận hưởng cảnh đẹp nhân gian, cả năm sau mới chịu quay về kinh thành ra mắt triều đình.

Mọi chuyện đều có thể xảy ra, nhất là khi sử sách chỉ nhắc đến vẻn vẹn vài câu. Nhưng cần xem xét nhiều yếu tố khác:

Trần Khắc Chung là đại thần nhà Trần, ông nổi tiếng khi dám tình nguyện đi sứ gặp tướng giặc Ô Mã Nhi, đối đáp rành mạch khiến quân Mông Cổ thán phục. Sau đó, Ô Mã Nhi cho người đuổi theo giết để trừ tai họa.

Thời điểm giải cứu Huyền Trân công chúa, ông là một trụ cột của triều đình, lại đã 60 tuổi, ở thời đó là đã rất già yếu, sự chênh lệch tuổi tác khó tạo thành chuyện “lửa rơm”. Mặt khác, Trần Khắc Chung không đi một mình, trên thuyền còn có An phủ Đặng Vân là phó sứ và các thị nữ hầu hạ công chúa cùng các quân binh khác.

Dẫu biết rằng, dưới thời nhà Trần, quan hệ nam nữ khá phóng túng nhưng bản thân Huyền Trân công chúa cũng được giáo dục lễ nghi ở mức đáng kể. Thời điểm đó bà đang trong giai đoạn có tang chồng, lại mới sinh con, còn đang ở cữ là lúc tránh các bệnh sản hậu, chuyện dan díu không chỉ trái đạo lý mà còn nguy hiểm cho sức khỏe.

huyen-tran-cong-chua-va-cuoc-giai-cuu-khoi-gian-hoa-thieu-6
Sau khi về đất Việt, Huyền Trân công chúa xuất gia, nương nhờ cửa Phật

Khi về đến đất Việt, bà đã lên Yên Tử gặp phụ thân, sau đó quyết định quy y cửa Phật, xuất gia tại núi Trâu Sơn với pháp danh Hương Tràng. 

Theo dã sử và thần tích tại đền thờ của bà, cuối năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ trước đây, bấy giờ đã quy y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.

Bà mất vào mồng 9 tháng Giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là Thần Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn. Ngày công chúa mất sau này hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế.

Các triều đại sau đều sắc phong công chúa Huyền Trân là thần hộ quốc. Nhà Nguyễn ban chiếu ghi nhận công lao của công chúa Huyền Trân "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là "Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần".

(Theo Wiki, Pháp luật TP Hồ Chí Minh, Kiến Thức)

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận