Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao - bà hoàng duy nhất của sử Việt được người trong cung cấm tôn là "Phật sống"
Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao tư chất cao quý, thông minh mẫn tiệp. Từ ngày nhập cung, cuộc đời bà có giây phút nào không vì cơ nghiệp họ Lê mà tận hiến, từ Thái Tông, Thánh Tông đến cả Hiến Tông sau này.
Xuất thân từ dòng tộc lớn
Ngô Thị Ngọc Dao (1421 - 26 tháng 2, 1496), còn gọi là Quang Thục thái hậu hay Thái Tông Ngô hoàng hậu. Bà là phi tần của Lê Thái Tông, mẹ đẻ của Lê Thánh Tông thời nhà Hậu Lê.
Sử chép, Quang Thục hoàng thái hậu Ngọc Dao là người làng Động Bàng (huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa, nay là xã Định Hòa, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Có nguồn cho rằng, quê bà ở làng Thịnh Mỹ (làng Mía), nay là xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Họ Ngô của bà vốn là một dòng họ ở ở thời Trần, sau nhờ có công giúp Lê Lợi trong cuộc kháng chiến đánh đuổi quân Minh xâm lược mà trở thành công thần nhà Lê. Bà Ngô Thị Ngọc Dao là con thứ 3 của quan Bình Ngô Khai quốc đệ nhất công thần Bàng Khê hầu Ngô Từ. Mẹ họ Đinh ở Thanh Hóa, tên Đinh Ngọc Kế. Bà Ngoại là con gái tôn thất họ Trần, hậu duệ của Tá Thánh Thái sư Chiêm Văn vương Trần Nhật Duật.
Theo báo Hà Nội mới, bà Ngọc Dao mồ côi mẹ từ nhỏ nên được bà ngoại đem về nuôi. Một lần, có người đi qua nhìn bà và bảo rằng: "Cô bé này về sau sẽ làm mẹ thiên hạ”. Nói xong, người đó bỗng biến mất.
Chị ruột của bà Ngọc Dao là Ngọc Vân được vào chầu Thái tổ Cao Hoàng đế. Năm thứ 3 niên hiệu Thiệu Bình (1436), Ngọc Dao 16 tuổi, con gái nhà lương gia, được tuyển vào cung. Do nết na, lễ độ, thờ trên đúng lễ đối với kẻ dưới có ân nên được vua Lê Thái Tông rất mực yêu mến.
Giai thoại tiên đồng giáng thế làm con Quang Thục thái hậu
Hậu cung của Thái Tông vốn chẳng yên bình, lúc này đang nằm trong tay Thần phi Nguyễn Thị Anh - người phụ nữ có không ít tâm cơ và tham vọng. Thành ra nguy hiểm trùng trùng, chẳng khác nào đầm rồng hang hổ.
Vào tháng 12 năm Đinh Tỵ (1437) xảy ra vụ án của Huệ phi Nhật lệ. Cung nhân Ngô Thị Ngọc Dao bị nghi ngờ là dính líu đến vụ án, có thể nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng nhờ sự giúp đỡ của Nguyễn Trãi và bà Nguyễn Thị Lộ mà thoát chết, được đưa ra ở tạm chùa Huy Văn.
Không bao lâu sau, bà được đưa trở về cung. Vào tháng 6 năm Canh Thân (1440), bà được phong làm Tiệp dư, cho ở cung Khánh Phương - vốn là cung cũ của Huệ phi Nhật Lệ.
Sử cũ có chép, lúc Thái hậu Ngọc Dao còn là Tiệp dư, đi cầu tự, chiêm bao thấy trời cho tiên đồng, rồi có thai. Tục truyền, Thái hậu khi ở cữ, vì mệt mỏi thiếp đi, mơ thấy được đến chỗ Thượng đế. Thượng đế sai một tiên đồng xuống làm con Thái hậu, tiên đồng chần chừ không chịu đi, Thượng đế giận, lấy cái hốt ngọc đánh vào trán làm chảy máu.
Khi bà Ngọc Dao tỉnh lại thì sinh hoàng tử Tư Thành vào ngày 20 tháng Bảy năm Nhâm Tuất (1442), tại làng Huy Văn (thuộc phố Tôn Đức Thắng bây giờ).
Lúc mới sinh, Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này) thần sắc anh dị, tuấn tú. Cũng từ đó, bà được vua Lê Thái Tông rất sủng ái.
Bậc mẫu nghi thiên hạ, người mẹ hiền sinh vua giỏi
Hoàng tử Tư Thành sinh được vài tháng thì xảy ra vụ án Lệ Chi Viên. Vua Lê Thái Tông qua đời. Vua Lê Nhân Tông nối ngôi khi mới 3 tuổi. Tuyên Từ Hoàng thái hậu Nguyễn Anh nhiếp chính.
Vào năm 1445, hoàng tử Tư Thành lên 4 tuổi được Thái hậu Nguyễn Thị Anh phong làm phiên vương ở đất Bình Nguyên gọi là Bình Nguyên vương, dựng phủ đệ ở phía tây hoàng thành. Bà Ngọc Dao được thăng làm Sung Viên cho ra phụng sự nhà Thái miếu.
Như vậy, cho đến năm 1460, gần 15 năm, mẹ con bà Ngọc Dao sống bên hoàng cung. Thái tử Tư Thành hàng ngày cùng các hoàng tử khác vào cung học tập. Bà Ngọc Dao trông coi việc hương khói cho nhà Thái miếu.
Đến năm 1459, Lạng Sơn vương Nghi Dân gây biến, vua Lê Nhân Tông và Tuyên Từ Hoàng thái hậu đều bị hại. Đến năm 1460, các vị đại thần từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn như Đinh Liệt, Nguyễn Xí đã ra chùa (điện Huy Văn) rước Tư Thành vào cung, lập làm vua, lấy hiệu là Thánh Tông.
Sau khi con trai đăng cơ, vào tháng 6 cùng năm, bà Ngô Thị Ngọc Dao được dâng sách ngọc tôn làm Hoàng thái hậu, sống trong điện Thừa Hoa. Khi đó bà mới 39 tuổi. Từ đó suốt 37 năm, bà Ngọc Dao giữ ngôi Thái hậu, là bậc mẫu nghi thiên hạ.
Bà là người có tư chất cao quý thuần hòa, thông minh mẫn tiệp, lại được sinh ra trong một cự tộc, được hưởng một nền giáo dục theo chuẩn mực lễ giáo Nho gia nên có lối sống hết sức mẫu mực. Tuy ở ngôi cao quý nhưng bà không sống xa hoa, luôn luôn cần kiệm.
Các công việc nữ công như may vá thêu thùa, cỗ bàn mâm rượu bà đều vô cùng khéo léo, tự tay làm. Bà cẩn thận kỹ càng từ nét mặt dáng đi, xiêm áo luôn chỉnh tề, đối xử với mọi người luôn giữ vẻ ôn hòa.
Để khuyến khích Nho phong, bà thường xuyên chuyên cần tuân thủ lễ pháp. Ở ngôi Thái hậu nhưng bà chưa bao giờ cậy thế đề tham dự chính sự. Bà luôn cẩn trọng trong các nghi lễ, nghiêm trang cung kính nơi tông miếu. Mỗi khi các nơi đưa của ngon vật lạ đến, bà lại lệnh phải dâng cúng trước rồi mới tiến cho vua dùng.
Bà tuy nghiêm khắc nhưng rất thương xót người nghèo khó. Khi Thiếu phủ cung cấp vàng lạu, bà đều đem cho mọi người. Từ con cháu đến kẻ hầu người hạ, ai ai cũng được bà thương mến. Cũng vì vậy mà người trong cung tôn bà làm "Phật sống".
Xứng đáng là người đứng đầu trong các vương hậu của Đại Việt
Không chỉ là bậc mẫu nghi thiên hạ thương dân như con, bà Ngô Thị Ngọc Dao còn là người mẹ hiền, dạy ra vua giỏi. Vua Lê Thánh Tông mỗi khi có việc khó nghĩ thường đến nhờ bà chỉ bảo.
Nhờ sự dạy dỗ của người mẹ hiền mà Lê Thánh Tông trở thành ông vua anh minh của triều đại nhà Lê. Suốt 38 năm (1460-1497) dưới thời vua Lê Thánh Tông, đất nước Đại Việt đã bước vào giai đoạn cực thịnh, nhân dân được sống trong hòa bình, kinh tế phát triển, biên giới được giữ vững.
Riêng với Thái tử Lê Tranh (sau này là vua Lê Hiến Tông), bà có một tình cảm đặc biệt. Biết Thái tử là người gánh vác trọng trách đất nước, Thái hậu gần gũi Thái tử không rời, chăm lo dạy bảo chu đáo.
Không chỉ thông minh mẫn tiệp, Ngô Thị Ngọc Dao còn là một phụ nữ rất xinh đẹp, một vẻ đẹp giản dị, nền nã. Khi tuổi tác đã cao, lúc nhàn rỗi bà vẫn làm thơ, đem kinh sách sử truyện ra dạy dỗ con cháu.
Văn bia tại lăng mộ của bà cho biết một điều đặc biệt lạ ở bà là khi bà đã ngoài 70 tuổi mà tóc không bạc, răng không rụng, mắt không mờ, dáng mạo không suy, phong thái trẻ trung chỉ như người chừng 40 tuổi.
Tư chất cũng như trí tuệ và đức độ của bà khiến từ cung đình cho đến dân gian ai cũng ngưỡng mộ. Khi bà qua đời, quần thần làm hàng trăm bài thơ ai điếu, hiện những bài thơ này vẫn còn lưu lại trên bia tại lăng mộ của bà. Sự thương tiếc đối với một vương hậu như trường hợp của bà rất hiếm có trong lịch sử.
Bà Ngô Thị Ngọc Dạo được các đại thần đương triều đánh giá cao và cho rằng, bà là người có công lớn đối với giang sơn xã tắc. Đặc biệt, bà là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông, nuôi dạy ra ông vua đức độ, anh minh.
Năm 1496, bà lâm bệnh nặng rồi mất ở điện Thừa Hoa, thọ 76 tuổi, được đưa về an táng ở Lam Sơn theo về Hựu lăng (lăng vua Lê Thái Tông). Bà chỉ qua đời trước vua Lê Thánh Tông 10 tháng. Như vậy cả cuộc đời của vị hoàng đế anh minh này luôn có sự quan tâm của người mẹ đáng kính của mình.
Bia Khôn nguyên chí đức hay còn gọi bia Quang thục Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao là một trong 12 Bảo vật quốc gia được Thủ tướng ký quyết định công nhận năm 2014, là tấm bia tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc, giá trị văn hóa, lịch sử được lưu giữ đến ngày nay. Cùng với bia Vĩnh Lăng (Lam Sơn Vĩnh Lăng Bi), hai bảo vật này góp phần tạo nên giá trị đặc biệt cho Khu di tích lịch sử Lam Kinh.
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận