Nhà sư Việt mượn thơ "bẻ gãy" sự ngạo mạn của sứ Tống
Câu thơ của sư Pháp Thuận có ý rằng, người Việt nhìn ngoài có thể nhẹ nhưng đừng quên mái chèo phía dưới dập đầu sóng xanh. Cách đối thơ chuẩn từ thơ đến ý khiến sứ Tống sợ hãi, hết luôn sự ngạo mạn ban đầu.
Trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam với các triều đại phương Bắc, bên cạnh việc đấu võ thì đấu văn cũng diễn ra rất ác liệt. Không ít sự kiện được ghi vào chính sử, lưu truyền đến tận ngày nay.
Nếu đấu võ thể hiện sức mạnh quân sự cùng lòng dũng cảm thì đấu văn lại thể hiện ý chí sắt đá, sự quật cường thông minh của người Việt. Trong đó, phải kể đến cuộc đấu văn giữa sứ nhà Tống với nhà Việt năm 987.
Năm Đinh hợi (987), nhà Tống sai Lý Giác đi sứ Đại Việt. Tống Hy Tông phong Lý Giác là Quốc tử giám bác sĩ. Lý Giác là một văn thần, thơ văn giỏi, học vấn rộng. Tống Hy Tông cử Lý Giác sang để thăm dò tình hình Đại Việt, đồng thời muốn xem nhân tâm Đại Việt trong thời điểm rối ren ra sao.
Họ muốn biết, sau khi Lê Hoàn lên ngôi thay nhà Đinh, sĩ phu Việt sẽ ủng hộ hay phản đối. Nếu triều Lê Hoàn không có ai cơ trí, nhà Tống sẽ lên kế hoạch thôn tính Đại Việt.
Khi đó, vua Lê Hoàn cho nhà sư Pháp Thuận (914-990) ra ứng phó, để cho sứ Tống thấy nước ta là một nước thi thư, nhân tài đầy rẫy. Pháp Thuận tên thật là Đỗ Pháp Thuận, là thiền sư đời thứ 10 của dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Ông nổi tiếng học rộng thơ hay, không màng danh lợi.
Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “Năm Đinh hợi (987), nhà Tống lại sai Lý Giác sang. Khi Giác đến chùa Sách Giang, vua sai pháp sư tên là Thuận giả làm người coi sông ra đón. Giác rất thích nói chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước, Giác vui ngâm rằng:
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
(Ngỗng ngỗng hai con ngỗng,
Ngửa mặt nhìn chân trời).
Pháp sư dương cầm chèo, theo vần làm nối đưa cho Giác xem:
Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba.
(Nước lục phô lông trắng,
Chèo hồng sóng xanh bơi).”
Đọc qua bài thơ này chỉ thấy 2 người tả ngỗng nhưng bên trong lại là tiếng đáp dọa nạt của sứ Tống cùng lời đáp vang tiếng binh khí của người lái đò Đại Việt. Cụ thể, hai câu thơ tả ngỗng của Lý Giác là:
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha
Ẩn sau ý nghĩa tả ngỗng, sứ Tống ám chỉ vua tôi nhà Tiền Lê giống như bầy ngỗng hướng tới mặt trời (mặt trời chính là nước Tống). Còn lời đáp trả của sư Pháp Thuận là:
Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba
Nghe xong, sứ nhà Tống lấy làm kinh hãi. Khi Lý Giác ngâm thơ mượn ý 2 câu đầu của bài Vịnh Nga do Lạc Tân Vương làm từ 3 thế kỷ trước, sư Pháp Thuận cũng mượn luôn 2 câu sau để đáp trả. Trong đó, câu của sư Pháp Thuận còn có ý rằng, người Việt nhìn ngoài có thể nhẹ nhưng đừng quên mái chèo phía dưới dập đầu sóng xanh. Nhà sư đối thơ chuẩn từ thơ đến ý khiến sứ Tống sợ hãi, hết luôn sự ngạo mạn ban đầu.
Bài thơ gốc của Lạc Tân Vương là:
Nga, nga, nga
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chủy bát thanh ba
Dịch:
Ngỗng, ngỗng, ngỗng
Nghếch cổ lên trời kêu
Lông trắng phô nước biếc
Chân hồng quẫy sóng xanh)
Khi đến Hoa Lư, Lý Giác làm thêm một bài thơ nữa để thử tài người Việt. Theo Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép:
“Khi về đến sứ quán, Giác làm thơ gửi tặng:
Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du,
Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu.
Đông Đô lưỡng biệt tâm vưu luyến,
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch,
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu.
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu.
Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.
(May gặp thời bình được giúp mưu,
Một mình hai lược sứ Giao Châu.
Đông Đô mấy độ còn lưu luyến,
Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu.
Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm,
Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu.
Ngoài trời lại có trời soi nữa.
Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu).
Thuận đem thơ này dâng lên. Vua cho gọi sư Ngô Khuông Việt đến xem. Khuông Việt nói: “Thơ này tôn bệ hạ không khác gì vua Tống”. Vua khen ý thơ, tặng cho rất hậu. Khi Giác từ biệt ra về, vua sai Khuông Việt làm bài hát để tiễn, lời rằng:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang,
Cửu thiên quy lộ trường.
Tình thảm thiết,
Đối ly trường,
Phan luyến sử tinh lang.
Nguyện tương thâm ý vị biên cương,
Phân minh tấu ngã hoàng.
(Nắng tươi gió thuận cánh buồm giương,
Thần tiên lại đế hương.
Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương,
Về trời xa đường trường.
Tình thắm thiết,
Chén lên đường,
Vin xe sứ vấn vương.
Xin đem thâm ý vì Nam cương,
Tâu vua tôi tỏ tường)
Giác lạy ra về”
Thực tế, nhà sư Khuông Việt thừa biết Lý Giác vẫn có ý ngạo mạn khi câu cuối ám chỉ, tuy Lê Hoàn xưng vua nhưng vẫn chỉ là sóng ở khe đầm. Tuy nhiên, khi nhà sư Khuông Việt nói câu: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu” của Lý Giác là tôn vua Tống với vua Lê là như nhau đã khiến Lý Giác lạnh sống lưng. Bởi chuyện này nếu có ai sàm tấu với vua Tống thì Lý Giác sẽ mắc tội lớn, tru di tam tộc chả chơi. Vì thế mà Lý Giác sợ hãi, không dám bóng gió gì thêm trước khi ra về.
(Theo Một Thế Giới)
Xem thêm: Đại Việt thời vua Lê Thánh Tông từng "cân" cả Đông Nam Á như thế nào?
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận