Thái sư Trần Thủ Độ - vị "đạo diễn" khởi dựng triều Trần, có lòng trung quân, ái quốc tột độ
Thái sư Trần Thủ độ một tay khởi dựng nhà Trần, mở ra vương triều huy hoàng. Ông còn là bậc thầy về quân sự với lòng trung quân, ái quốc tột độ, với sự cai trị đất nước nghiêm minh.
Thân thế của Thái sư Trần Thủ Độ
Thái sư Trần Thủ Độ (hay Trung Vũ đại vương, 1194 - 1264) là một nhà chính trị, sống vào cuối triều Lý, đầu triều Trần. Ông đóng vai trò quan trọng trong sự kiện lật đổ triều Lý, tạo dựng lên triều Trần, thu phục các thế lực người Man làm phản loạn và trong cuộc chiến kháng quân Nguyên lần thứ nhất.
Nói về thân thế của Trần Thủ Độ, trong các sách chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, An Nam chí lược, Lịch triều hiến chương loại chí chép rõ. Sử chỉ ghi chép, Trần Lý ở Tức Mặc (Nam Định), sinh ra Trần Tự Khánh, Trần Thừa và con gái Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là em họ của 3 người con của Trần Lý. Trần Thừa sinh ra Trần Thái Tông (Trần Cảnh), Trần Thủ Độ là chú họ của Trần Thái Tông.
Theo bài viết chưa rõ Về Hoàng Nghị đại vương, ông có tên Trần An Bang, còn Thủ Độ là biểu tự, quê ở Lưu Xá, phủ LOng Hưng, lộ Sơn Nam Hạ (nay là thôn Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Cùng với 2 người anh Trần An Quốc và Trần An Hạ, ông là con trai út của Trần Quả, em trai của Trần Lý, sau được truy tôn Hoằng Nghị vương. Song các nhà sử học đã có hội thảo năm 2019 và khẳng định, cái tên Trần Hoằng Nghị không phải nhân vật lịch sử có thật.
Cuộc đời Trần Thủ Độ là cuộc đời của một con người tài ba, thao lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế... Có thể nói sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), Trần Thủ Độ là người kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp toan tính giành ngôi từ vương triều nhà Lý về tay nhà Trần. Đỉnh cao của toan tính này là "màn kịch" nhường ngôi vua của Lý Chiêu Hoàng cho chồng là Trần Cảnh vào cuối thời Lý (1225); mở đầu cho giai đoạn nắm quyền cai trị nước Đại Việt của Vương triều Trần.
Sinh thời, Trần Thủ Độ là người nắm quyền và là linh hồn của Vương triều nhà Trần. Sử sách có chép: "Thủ Độ tuy làm Tể tướng, nhưng mọi việc không việc gì là không để ý tới". Thực tế khi Trần Cảnh bị ép lấy chị dâu (vợ Trần Liễu), bỏ lên Yên Tử nhưng cuối cùng cũng phải quay về kinh thành trước sự cứng rắn và khôn khéo của Trần Thủ Độ: "Vua ở đâu thì kinh thành ở đó". Với tư tưởng có dựng được nước mạnh mới giữ được nước bền, Trần Thủ Độ tiến hành từng bước đổi mới đất nước Đại Việt.
Sử sách còn đánh giá, Trần Thủ Độ không chỉ có mưu lược trong việc dựng nước và giữ nước mà ông còn có đầu óc của người tổ chức, phát triển kinh tế đất nước. Các cứ liệu lịch sử cho thấy, ông đã tiến hành cho phép chuyển công hữu thành tư hữu.
Trong "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi: "Tháng Sáu bán ruộng công, mỗi diện 5 quan tiền (diện tương đương với mẫu bây giờ), cho phép nhân dân mua làm ruộng tư". Sau khi nắm quyền trong tay, Thủ Độ tấu với vua không chỉ cho bán ruộng đất cho người nông dân mà còn củng cố đê điều, đắp đê ngăn nước mặn, đào sông khai thông thủy, bộ.
Bên cạnh việc phát triển kinh tế, ông còn tập trung phát triển Nho học. Ông cho xây dựng Quốc Tử giám, đẩy mạnh việc thi cử tuyển hiền tài cho đất nước. "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Trần Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy"... (tr.478).
Và khi quân Nguyên xâm lược Đại Việt lầm thứ nhất, Trần Thủ Độ là linh hồn của cuộc kháng chiến với câu nói bất hủ: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ không cần lo ngại gì cả". Ông chính là người ngồi trong màn trướng mà định việc thiên hạ; chỉ đạo tướng Lê Tần, Trần Khánh Dư, Trần Phó Duyệt và cả Trần Hưng Đạo (lúc đó còn trẻ) ra trận đánh giặc. Ngay cả vua Trần Thái Tông, hoàng tử Trần Hoảng... cũng đều vác gươm đi đánh giặc.
Sử chép: "Giáp Tý năm thứ 7 (1264), Tống cảnh định năm thứ 5, Nguyên chí nguyên năm thứ 1, mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi 71), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương".
"Màn kịch' chuyển giao quyền lực của Trần Thủ Độ
Sách "Khâm Định Việt sử thông giám cương mục”, ở phần nói về các sự kiện xảy ra dưới triều vua Lý Huệ Tông, có chép: “Giáp Thân, năm thứ 14 (1224). Dùng em họ của Hoàng hậu là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ... Thủ Độ quản lĩnh điện tiền chư quân hộ vệ cấm đình, xét xử tất cả mọi việc” (Điện tiền chỉ huy sứ khi ấy nắm quyền thống lĩnh toàn bộ quân cấm vệ).
Sự bổ nhiệm này có thể nói chính là yếu tố chuẩn bị cực kỳ quan trọng cho việc nhà Trần soán lấy thiên hạ của nhà Lý. Trò đùa (hoặc sự báo ứng) của lịch sử chăng? Ta còn nhớ, trước đó hơn 200 năm (1009), sau khi Lê đế Long Đĩnh băng hà, Lý Công Uẩn đã được bách tôn làm thiên tử. Giang sơn đã từ tay nhà Tiền Lê về tay nhà Lý. Chỉ có một khác biệt giữa 2 người: Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn trở thành vị Hoàng đế khai mở vương triều Lý, còn Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ thì trở thành một đại công thần, người khởi dựng và đã dùng trọn đời mình để bảo vệ sự tồn tại của vương triều Trần.
Xem lại 1 lần cái tấn kịch lịch sử của sự chuyển giao vương quyền từ nhà Lý sang họ Trần: "Trần Cảnh lên 8 tuổi, đến phiên vào hầu. Chiêu Hoàng thấy Cảnh, đem lòng yêu thích, thường vời vào hầu, nô nghịch cười đùa. Trần Cảnh đem việc đó mách bảo Thủ Độ. Thủ Độ nói: “Nếu quả vậy thì họ ta sẽ là họ nhà vua hay là cả họ sẽ bị giết sạch?”.
Một hôm Chiêu Hoàng lại lấy cái khăn trầu ném cho Trần Cảnh. Trần Cảnh lạy, nhận lấy, rồi mách với Trần Thủ Độ, Thủ Độ liền đem gia thuộc và họ hàng vào trong cung cấm, sai đóng các cửa thành lại. Trăm quan tiến triều không được. Trần Thủ Độ nhân thế loan báo cho mọi người: "Bệ hạ có chồng rồi!". Các quan đều vâng lời và xin chọn ngày vào chầu để làm lễ yết kiến. Đến ngày 21 tháng 12, bầy tôi tiến triều, lạy mừng. Nhà vua xuống chiếu truyền ngôi cho Trần Cảnh".
Tham vọng soán ngôi nhà Lý của Trần Thủ Độ là một sự thật hiển nhiên. Bởi thế ông mới có động lực để ngang nhiên "phiên dịch" những hành vi đùa nghịch vô tư của đám trẻ con vương giả theo lối diễn giải nghĩa biểu tượng: Chiêu Hoàng ném khăn trầu – khăn đựng các đồ ăn trầu, cau, vỏ, ống vôi – cho Trần Cảnh, tức là muốn... làm dâu họ Trần!
Cũng không thể phủ nhận tài phán đoán nhanh nhạy và sự chủ động xử lý tình huống của Trần Thủ Độ. Buổi mạt vạn của nhà Lý, thì chắc chắn không chỉ họ Trần mà rất nhiều thế lực khác cũng lăm le ngôi báu. Sử không chép nhưng ta có thể hình dung được một bầu trời đặc quánh lại trong sự dò la, rình rập, giữ miếng và chờ đợi thời cơ của các thế lực. Sự ưa thích theo kiểu bé gái - bé trai của Lý Chiêu Hoàng với Trần Thủ Độ lập tức rọi một tia sáng hy vọng cho ông Điện tiền chỉ huy sứ họ Trần lắm cơ mưu. Đồng thời đặt ông ở thế được ăn cả ngã về không, vì rất có thể sẽ là đầu mối cho một thảm kịch mà họ Trần sẽ phải hứng chịu nếu thất bại - “cả họ sẽ bị giết sạch” – nói như lời Trần Thủ Độ.
Việc đem gia thuộc và họ hàng vào trong cung cấm, sai lính đóng cửa hành của Trần Thủ Độ đã phản ánh khá rõ mối lo của ông. Nhưng đó cũng là 1 quyết định táo bạo, dứt khoát để lấy ngôi báo về cho họ Trần.
Cuối cùng mọi chuyện đều thuận buồm xuôi gió, tính toán của Trần Thủ Độ không trật một ly. Tính toán của ông đã ép bách quan phải chấp nhận rằng "bệ hạ có chồng". Đỉnh điểm cho sự hợp thức hóa "sang tên" vương quyền là tờ chiếu truyền ngôi, có đoạn: “Trẫm xét thấy ngôi báu rất là trọng đại mà trẫm là vua đàn bà, phải gánh vác lịch số do trời giao cho, riêng những nơm nớp lo sợ, như sắp sa xuống vực sâu. Nghĩ sao tìm được hiền nhân quân tử để giúp đỡ về chính trị. Duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, uy nghi đường hoàng, thực có phong độ bậc quân tử, có thể nhường cho ngôi báu để chống đỡ trong buổi gian nguy. Vậy rất mong Trần Cảnh đồng lòng hợp sức, dẹp yên loạn lạc, cứu vớt sinh dân để cùng hưởng phúc thái bình”.
Khi vương quyền mang họ Trần, Thủ Độ đã làm gì?
Khi vương quyền mang họ Trần, Thủ Độ không kê cao gối ngủ, hưởng thụ vinh hoa phú quý. Trong bối cảnh nhà Trần còn non trẻ, Trần Thủ Độ đóng vai trò hộ giá mẫn cán. Ông tiến hành "nhổ cỏ tận gốc" - triết lý hành động đậm màu chuyên chế. Ông lần lượt bức tử Lý Huệ Tông (1226, lúc này cựu hoàng họ Lý chỉ là một ông sư ở chùa Chân Giáo). Sau đó lập kế hoạch chôn sống toàn bộ tôn thất họ Lý (1232).
Trong mắt hậu thế, đây chính là vết đen khó tẩy rửa của Trần Thủ Độ. Dực Tôn Hoàng đế Tự Đức - vị vua nổi tiếng nghiêm khắc của nhà Nguyễn từng hạ bút: "Thủ Độ là công thần nhà Trần, tức là tội nhân nhà Lý. Huống chi làm những nết xấu như chó lợn (câu này chỉ việc Trần Thủ Độ lấy vợ của Lý Huệ Tông, cũng tức là chị họ của ông) dạ độc như hùm beo, dựng nước mà như thế thì làm thế nào mà lâu dài được?”.
Tuy vậy, thử đặt câu hỏi: “ở buổi đầu của triều Trần, nếu Trần Thủ Độ không xuống tay trước, liệu tôn thất nhà Lý và các thế lực phò Lý có chịu ngoan ngoãn thúc thủ sau khi đã bị tước đoạt quyền lực một cách tức tưởi?”, ta sẽ có đầy đủ lý do để biện hộ cho hành động tận diệt Lý gia của Trần Thủ Độ. Nếu Trần Thủ Độ không quyết liệt trong việc bảo vệ cho sự tồn tại của triều Trần lúc khai quốc, lịch sử Việt Nam cũng sẽ không có cơ hội để sau đó ghi nhận một chính quyền quân sự, một hào khí Đông A mạnh đến mức có thể ba lần chặn đứng vó ngựa xâm lược của quân Nguyên Mông.
Có lẽ, vì không thể phủ nhận được chuyện này nên vua Tự Đức, dù đầy ác cảm, vẫn đành phải miễn cưỡng khen: “Thủ Độ vốn là người không biết chữ, thế mà một mình kinh doanh, dựng lên được nghiệp lớn thì thực là cương quyết hiểm giảo, xưa nay ít có mấy người”.
Vị Thái sư trung quân, ái quốc tột độ
Những buổi đầu của nhà Trần, Thủ Độ nắm mọi quyền hành trong tay. Thế nhưng ông khiến người ta nể phục vì sự trung quân, ái quốc tột độ. Xem cung cách ứng xử của Trần Thủ Độ với vua Trần thì rõ nhất.
Với sức mạnh quân sự nắm trong tay và uy thế của Trần Thủ Độ thì không ít người có thể hình dung ra một kịch bản: Sau khi cướp ngôi nhà Lý cho nhà Trần, vua còn nhỏ, Thủ Độ sẽ giữ quyền nhiếp chính, chờ cơ hội thuận tiện, tìm một lý do hợp lý để tự đưa mình lên ngôi báu. Trong lịch sử đã từng có tiền lệ như thế.
Tuy nhiên, Trần Thủ Độ trong lịch sử Việt Nam không như vậy. Với vua Trần, ông là bề tôi tuyệt đối trung thành. Khi Trần Cảnh tức vị, dùng Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, có quyền xếp đặt mọi sự cai trị trong nước. Ông nói: "Tôi dẫu là chú, nhưng không biết chữ, mà lại còn phải đánh đông dẹp bắc để trị giặc cướp. Chi bằng mời Thánh phụ (tức Trần Thừa, cha Trần Cảnh) quyền tạm coi giữ quốc chính, đợi một vài năm nữa nước nhà thống nhất sẽ trao lại quyền bính cho vua, cùng hưởng phúc thăng bình”.
Không phải ai khác, Trần Thủ Độ chính là người thiết kế mô hình hai vua cho triều đình nhà Trần. Một mô hình cai trị được rất nhiều sử gia sau này ca ngợi. Khi Trần Liễu (anh trai Trần Cảnh) nổi loạn không thành, lẻn vào thuyền em xin hàng thì: "Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền nhà vua, tuốt gươm lên quát rằng: “Giết thằng giặc là Liễu”.
Trần Thái Tông thấy thể vội đẩy Trần Liễu ẩn vào trong thuyền rồi bảo Trần Thủ Độ rằng: "Phụng Kiền vương đến xin đầu hàng đấy”. Miệng nói nhưng lấy mình che đỡ cho Trần Liễu. Thủ Độ giận lắm, vất gươm xuống sông nói rằng: “Tao thật là con chó săn, biết đâu anh em mày hòa thuận với nhau hay trái y nhau”.
Có thể nói, đây là đoạn văn phản ánh sinh động về con người và tính cách của Thủ Độ. Ông mang trong tâm trí suy nghĩ trung thành, bộc trực. Ông tôn Trần Cảnh lên ngôi báu, ông quyết liệt bảo vệ sự tồn tại của ngôi vua ấy. Mọi thế lực đe dọa nó, dẫu cho là anh em ruột thịt với ông cũng là "giặc" và đều phải "giết".
Tuy vậy, trong trường hợp này Trần Thủ Độ không tính đến sức mạnh thiêng liêng và sự bền chặt của những quan hệ huyết thống. Hành động “vất gươm xuống sông”, rồi câu nói có cả giận lẫn dỗi ngay sau đó vừa thể hiện sự “ngớ ra” vừa cho thấy cái bộc trực đến mức cục mịch của ông Quốc thượng phụ quyền hét ra lửa. Có lẽ đây là lần duy nhất trong đời Trần Thủ Độ tỏ ra bất lực trước tình thế khách quan.
Với tư cách là quan đầu triều, Trần Thủ Độ còn nêu rõ tấm gương về tinh thần trách nhiệm với quốc gia, dân tộc. Cụ thể ở lần quân Nguyên xâm lược, ông quả quyết: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo nghĩ đến chuyện khác cho phiền lòng”.
Khi vua tỏ ý muốn anh ruột Trần Thủ Độ là An Quốc làm Tể tướng, ông từ chối: "An Quốc là anh tôi, nếu bệ hạ nhận thấy là người hiền tài thì tôi xin từ chức để nhường cho anh tôi, nếu bệ hạ nhận thấy không phải là hiền tài thì không nên dùng, chứ nếu cả hai anh em đều làm tướng thì đối với thiên hạ còn ra thế nào?”.
Triều Trần đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Các hoàng đế của nhà Trần, từ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông đều là những triết gia, những thi sĩ đứng ở đỉnh cao của văn hóa Đại Việt giai đoạn trung đại. Thế nhưng, một thực tế không sao phủ nhận được là những ông vua bề bề chữ nghĩa ấy đều phải sâu sắc chịu ơn của Trần Thủ Độ – một người vốn không biết chữ. Không biết chữ, nhưng biết cách dựng lên một vương triều!
Xem thêm: Tài thao lược của Hưng Đạo Vương khiến đạo quân mạnh nhất thế giới đại bại
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận