Phủ chúa Nguyễn ở Đàng Trong và những sự thật không có trong chính sử

"Miêu tả lịch sử xứ Đàng Trong" có lẽ là tác phẩm đầu tiên hé lộ những chi tiết thú vị về đời sống thường nhật cũng như những dịp đặc biệt trong phủ Chúa. Đó là những điều không có trong chính sử hoặc có nhưng được miêu tả qua.

Đỗ Thu Nga
13:00 31/10/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Thủ phủ đầu tiên của chúa Nguyễn ở đâu?

Núi Vọng Phu ở VN có nhiều nhưng địa danh Ái Tử, hiện chỉ có một - là thị trấn Ái Tử thuộc huyện Triệu Phong (Quảng Trị) vẫn lưu truyền câu ca: "Mẹ thương con ra cầu Ái Tử/Vợ trông chồng lên núi Vọng Phu!”. Núi Vọng Phu được “dựng xây” từ câu chuyện cổ tích về tình vợ chồng oái ăm của một cặp anh em.

Truyện kể rằng, khi còn bé, người anh lỡ tay dùng dao chém vào đầu em chảy máu nên bỏ đi biệt xứ. Sau này, người anh kết hôn, có con nhưng anh ta đã phải một lần nữa chạy trốn khi biết vợ mình chính là đứa em ruột năm nao với bằng chứng vết sẹo trên đỉnh đầu.

Khi chồng bỏ đi không không nói câu nào, người vợ cũng là cô em liền bồng con đứng trên mõm núi trông ngóng, ngày này sang tháng khác rồi hóa đá và thành hòn vọng phu. Hiện trên cả nước có khá nhiều... hòn vọng phu. Có thể kể ra đây các hòn vọng phu ở xã Đông Hưng (H.Đông Sơn, Thanh Hóa), ở Quế Phong (Nghệ An), ở Lạng Sơn như trong câu ca “ Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa/Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”, ở H.Phù Cát (Bình Định) gắn với câu ca “ Bình Định có núi Vọng Phu/Có đầm Thị Nại, có cù Lao Xanh”...

phu-chua-nguyen-va-nhung-su-that-that-khong-co-trong-chinh-su
Thị trấn Ái Tử đang thay da đổi thịt từng ngày

Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, trước kia Ái Tử thuộc tổng An Đôn (H.Đăng Xương, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa). Còn trong Ô Châu cận lục, không rõ vì sao mà Dương Văn An lại nhắc đến địa danh Ái Tử với 1 câu rất lạ, rằng: “Đường làng Cổ Kinh đi thuyền rất tiện, dân xã Ôn Tuyền phong tục rất hay. Tên làng Ái Tử sao nỡ bán con cho người”.

Nhiều sử liệu lịch sử khác cho rằng, vào thế kỷ 16, 17, nạn cát cứ và tranh chấp giữa hai thế lực Trịnh - Nguyễn dẫn đến nội chiến, đất nước bị chia cắt, lấy sông Gianh làm giới tuyến. Ái Tử đã trở thành thủ phủ đầu tiên của chúa Nguyễn. 

Cụ thể, được sự gợi ý của Trạng Trình, năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng đã cùng các họ tộc Lê, Nguyễn, Trịnh, Hoàng, Đặng, Bùi... vào Thuận Hóa để dựng lại cơ đồ và chọn Ái Tử làm dinh trấn, gắn bó với vùng đất này cho đến lúc chúa qua đời vào năm 1613. Đến năm, 1744 chúa Nguyễn Phúc Khoát mới đưa chính dinh vào Phú Xuân (Huế), nên Ái Tử mới thành... cựu dinh. 

Với vị thế đó, Ái Tử đã từng rất hưng thịnh. Ái Tử cũng đã từng được chúa Nguyễn dựng chùa Tịnh Quang, sau đó được phong là sắc tứ Tịnh Quang (ngày nay gọi là chùa Sắc Tứ), từng được vua ban sắc dụ làm Quốc tự.

Song có điều rằng, ngày nay nhiều địa danh, câu chuyện về chúa Nguyễn ở Ái Tử chỉ còn truyền miệng. Vào năm 2013, tại hội thảo “Quảng Trị - đất dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng” do UBND tỉnh Quảng Trị và Hội Khoa học lịch sử VN đồng tổ chức, nhiều sử gia, nhà nghiên cứu đã đắng đót nhìn nhận rằng, hơn 400 năm đi qua, những di tích liên quan đến thời chúa Nguyễn Hoàng ở Ái Tử nếu không bị chôn vùi dưới lòng sông thì cũng đã biến mất.

Bí mật phủ chúa Nguyễn - những sự thật không có trong chính sử

Có lẽ Nguyễn Phúc Khoát là vị Chúa Nguyễn đầu tiên sử dụng người phương Tây làm thầy thuốc riêng cho mình. Người đó là Jean Koffler, giáo sĩ, sinh ở Prague (Tiệp Khắc) ngày 19/6/1711, lớn lên tu học theo các giáo sĩ dòng Tên (Jésuite). Năm 1739, Koffler sang Macao và năm sau, đến Đàng Trong rồi ở lại đây suốt 14 năm. Người này có 7 năm phục vụ trong phủ Chúa, trước khi chịu chung số phận với nhiều giáo sĩ khác, bị tống giam và trục xuất khỏi Đàng Trong vào năm 1755.

phu-chua-nguyen-va-nhung-su-that-that-khong-co-trong-chinh-su-9
Lăng Trường Thái (chúa Nguyễn Phúc Khoát)

10 năm sau (1766), Koffler lại bị tống giam ở Lisbonne (Bồ Đào Nha), ông sử dụng thời gian ở trong tù để ghi lại những hồi ức về khoảng thời gian khá dài đã sống ở Việt Nam. Tác phẩm này được một giáo sĩ thuộc Hội truyền giáo quốc ngoại là V. Barbier dịch ra tiếng Pháp dưới nhan đề Description historique de la Cochinchine (Miêu tả lịch sử xứ Đàng Trong).

Tác phẩm này có 7 chương, trong đó có 4 chương đầu viết về lịch sử Đàng Trong, đặc biệt nhắc đến những chi tiết thú vị về đời sống thường nhật cũng như những dịp đặc biệt trong phủ Chúa. Đây có lẽ là tác phẩm đầu tiên miêu tả một cách sinh động và khá đầy đủ về các sinh hoạt bên trong phủ Chúa mà chính sử chỉ miêu tả qua bằng những dòng biên niên khô khan, cứng nhắc.

1. Chúa là vua, khi ra khỏi điện, người dân không được phép đi đường

Koffler viết, thời ấy, Chúa đã là vua, ai vô cớ nhìn vào mặt Chúa sẽ bị khép trọng tội. Khi chúa ra khỏi điện, người dân không được phép ra đường. Những ngôi nhà nằm trên đường Chúa đi qua phải đóng cửa lại. 

Trong dịp này, quân lính cũng rất cực nhọc. Các đội lính hộ vệ phải trang bị giáo dài đi trước mở đường. Nhiều người cầm lọng theo sau Chúa, che mát Chúa trên suốt hành trình. Cán lọng làm bằng ngà hay gỗ quý, chóp lọng bằng vàng, vải lọng là lụa hay vải hoa nổi. Chúa ngồi trên một chiếc ngai 8 người khiêng, đi sát Chúa là các bậc đại thần.

Vào dịp đó, Chúa đi thăm một người bà con lâm bệnh, nơi ông từng ngồi trong nhà được gia chủ xem là chốn linh thiêng, không ai dám đến ngôi hay bước qua nữa. Nhiều người treo tại chỗ ấy một tấm biển lộng lẫy đề tên Chúa và mọi người trong nhà phải tỏ lòng thành kính với chiếc biển này.

phu-chua-nguyen-va-nhung-su-that-that-khong-co-trong-chinh-su-4

Khi chúa di chuyển bằng thuyền trên sông, sự chuẩn bị và sắp xếp cũng vô cùng tỉ mỉ. Thành phần nòng cốt của đội thuyền rồng gồm: 10 thuyền lớn, mỗi chiếc có 50 tay chèo và 25 thuyền nhỏ, mỗi chiếc 24 tay chèo. Thuyền rồng của chúa được sơn phết cực kỳ tráng lệ, nhất là ở phần mũi và đuôi thuyền. Ở phần mũi có một chiếc mái được chống đỡ bằng bốn cây cột, bên dưới đặt một khẩu súng thần công bằng đồng.

Tướng chỉ huy thuyền đứng trên thuyền của Chúa cùng một số lĩnh trẻ. Khi thuyền đến bến đỗ đầu tiên, Chúa bước lên bờ sụp lạy ba lạy trước phần mộ của Chúa Nguyễn đời trước. Thông thường Chúa chỉ xuất hành trên sông mỗi năm 1 lần, chủ yếu đích thân thu thuế, có lẽ Chúa sợ sự ẩn lậu thuế nếu giao cho người khác làm thay mình. Mặt khác, có sự hiện diện trực tiếp của ông, các địa phương không dám chậm trễ việc nộp thuế.

Cũng dịp này, các bà phi được cùng Chúa đi thuyền rồng. Họ ngồi trong những chiếc thuyền nhỏ có 14 tay chèo, cửa sổ trong khoang thuyền được gắn mắt lưới nhỏ để họ có thể nhìn thấy bên ngoài một cách thoải mái, trong khi người bên ngoài nhìn vào trong thuyền không thấy họ.

2. Trong phủ, Chúa dùng nhiều người thiểu số Tây Nguyên làm thị vệ

Hồi ký của Koffler cho biết, tại vương phủ, Chúa dùng nhiều người thiểu số ở Tây Nguyên làm thị vệ. Có lẽ nguyên nhân là những người này khỏe mạnh, trung thành. Người ta dễ dàng nhận ra họ với nước da đen bóng, giọng nói không chuẩn tiếng Việt.

Họ chia thành 4 đội, rất nhiều người nể nang, kể cả các vương thân và đại thần trong phủ. Việc bảo vệ bên ngoài vương phủ giao cho 25 đội lính luân phiên canh gác ngày đêm. Nếu tính cả thủy binh, tượng binh, kỵ binh... thì số quân của Chúa Nguyễn ở Đàng Trong thời bấy khoảng 20.000 người.

phu-chua-nguyen-va-nhung-su-that-that-khong-co-trong-chinh-su-3

Có thể thấy, nửa đầy thế kỷ 18, sinh hoạt tại vương phủ và đời sống ở Đàng Trong đã có quy củ, nề nếp. Quan chế vì thế cũng có những cái tiền cho phù hợp với nhu cầu của một xã hội ngày càng phát triển. Quan lại hàng nhất phẩm thường do các vương thân (chú bác hay anh em chúa Nguyễn) nắm giữ.

Bốn viên quan lớn nhất gọi là Tứ trụ gồm nội tả, nội hữu, ngoại tả, ngoại hữu, hai người được tin dùng hơn cả trong số này được chúa giao điều khiển công việc ở trấn đô thành, nơi chúa ngự. Hai người còn lại đặc trách việc giám sát công việc các trấn khác.

Quan văn khi đó đội mũ tiến sĩ, trang điểm bằng những hoa văn thiếp vàng, quan vũ thì đội mũ cong, gắn lông ngựa cứng, cũng trang trí bằng những hoa văn cùng các hạt đá quý. Lưng áo và ngực áo các đại thần thêu hình sư tử màu vàng, trái lại lưng và ngực áo của chúa thì thêu hình con rồng đang giang cánh…Quan lại hàng nhị phẩm phụ trách việc bảo vệ biên cương, hải cảng. Đông hơn cả là hàng tam phẩm gồm thái giám, ngự xạ, ngự y, chiêm tinh gia, quan lại các trấn…

3. Chuyện Chúa lâm trọng bệnh, qua đời

Chúa Võ vương ở ngôi từ năm 1738 đến năm 1765 là năm ông qua đời, còn Koffler đến Đàng Trong khoảng năm 1740 và bị trục xuất năm 1755, như vậy khoảng thời gian ông có mặt ở Đại Việt nằm trọn trong thời kỳ cầm quyền của chúa Võ vương. Điều này cũng có nghĩa là ông chưa từng tận mắt chứng kiến sự qua đời của chúa Nguyễn.

Song có lẽ do được người đương thời kể lại về chuyện này mà Koffler tỏ ra nắm vững những nghi thức khá đặc biệt tại vương phủ khi một vị chúa qua đời. Khi ấy, vị thế tử đã 20 tuổi, ông được đưa đến ở một dinh thự riêng, bên cạnh có vị thầy học thường được phong chức danh Thái tử Thái sư và một số thuộc hạ gồm: 8 hay 10 thị đồng, 4 thái giám, 2 hay 3 đội lính, 2 thư ký, một quan lại am hiểu về luật lệ, nghi lễ của vương quốc cùng nhiều người phục dịch khác, cả nam lẫn nữ. Dinh cơ của Thế tử nằm ngoài vương phủ nên thường có chuyện oái oăm là nhiều vị không có mặt khi chúa Nguyễn qua đời.

phu-chua-nguyen-va-nhung-su-that-that-khong-co-trong-chinh-su-1
Lăng mộ của Võ vương ở xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên Huế

Theo tập tục khi ấy, việc Chúa lâm trọng bệnh hay qua đời thường bị giấu rất kỹ trong những ngày đầu. Có vị đang đau nặng cũng cố mặc triều phục để chủ tọa cuộc họp các quan. Còn Chúa nằm xuống, cho dù vị Thế tử không có mặt ở vương phủ, cũng không ai dám thông báo cho ông ta biết ngay.

Một trong những việc làm tức thời của ông Tổng thái giám là đi đóng hết tất cả cửa ra vào vương phủ, nội bất xuất, ngoại bất nhập trong suốt ba ngày, là khoảng thời gian cần thiết để cho thân nhân khóc thương người đã chết mà người dân thường bên ngoài chưa hề hay biết. Sau ba ngày, viên thái giám mới mở cổng phủ để rước Thế tử vào và hướng dẫn đến cạnh thi thể người cha.

Sau đó, người ta mới công bố tin buồn cho thần dân biết và thêu tên người kế vị trên một lá cờ, treo lên kỳ đài ở cổng chính dẫn vào vương phủ. Quan lại các cấp, các cơ đội lính tập trung cả ở vương phủ, quỳ lạy và cất tiếng tung hô tân vương. Ở chi tiết này, Koffler có sự nhầm lẫn khi cho rằng tên của chúa Nguyễn đang tại vị là Duc Thanz Thuong (Đức Thánh Thượng). Thực ra đó không phải là một tên riêng mà chỉ là tiếng xưng hô của thần dân đối với bậc vua chúa.

4. Nghi thức đăng Chúa của Thế tử

Sau nghi thức ở vương phủ, vị Thế tử quay về dinh cơ của mình để nhận lời chúc tụng của các thái giám, các nàng hầu và những người phục dịch hàng ngày. Các thầy cúng có nhiệm vụ riêng. Họ chạy ra khúc sông phía trước dinh cơ của Thế tử (lúc đó đã là tân vương) làm phù phép và cho nổ nhiều dây pháo. Họ tin là làm như thế sẽ khiến ma quỷ biến mất, trả sự hiền hòa, an lành lại cho con sông đó (!).

ào một ngày nhất định sau khi vị chúa mới lên ngôi, các đại thần trong phủ Chúa làm lễ tuyên thệ trung thành với chúa. Lễ tuyên thệ không chỉ diễn ra trong ngày chúa lên ngôi mà còn được tổ chức hàng năm trong những ngày lễ Tết Nguyên đán.

Cái chết của chúa Nguyễn là một bất hạnh lớn cho các cung phi trong vương phủ. Kể từ đấy, họ phải giam mình giữa chốn khuê phòng và kéo dài cuộc sống của những tiết phụ. Họ phải cắt đi mái tóc dài đã dày công nâng niu, chăm sóc, mặc áo quần bằng vải thường, màu xám tro và đeo ở cổ một xâu chuỗi hạt.

Có những đêm họ sống trong nước mắt, khóc cho tuổi thanh xuân đang trôi qua, và có thể cho một bóng hình nào đó mà lòng họ đang ấp ủ. Họ bị một đội lính canh giữ, nhưng không quá chặt chẽ như những ngày chúa còn sống. Mẹ, chị và những người bà con thuộc giới nữ có thể đến thăm họ, một điều rất hiếm xảy ra khi chúa còn sống.

(Theo Thanh Niên, Pháp luật Việt Nam)

Xem thêm: Chúa Tiên Nguyễn Hoàng - đấng minh quân mở cõi Đàng Trong

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận