Chân dung 4 điệp viên huyền thoại trong lịch sử quân sự Việt Nam

Đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo, điệp viên Phạm Xuân Ẩn, "Ông cố vấn" Vũ Ngọc Nhạ, Thiếu tướng Đặng Trần Đức... đã gác lại tình riêng, không ngại "luồn sâu, leo cao" thâm nhập vào các cơ quan đầu não của địch để lấy thông tin mật, hỗ trợ lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Đỗ Thu Nga
10:00 17/05/2022 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Trong kháng chiến chống Mỹ, chiến trường không chỉ diễn ra ngoài mặt trận mà còn diễn ra ngay trong lòng địch - nơi các nhà tình báo xuất sắc của quân đội lặng lẽ lập chiến công. 

Mặt trận này đã sản sinh ra những huyền thoại "có một không hai" trong lịch sử quân sự Việt Nam, được Tổ quốc mãi mãi ghi công, nhân dân đời đời ghi nhớ. 

Điển hình như Đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo, điệp viên Phạm Xuân Ẩn, "Ông cố vấn" Vũ Ngọc Nhạ, Thiếu tướng Đặng Trần Đức (bí danh Ba Quốc), Đại tá Nguyễn Văn Tàu (bí danh Tư Cang), nữ tình báo Nguyễn Thị Mỹ Nhung (bí danh Tám Thảo)...

Ở trong cuốn "Tình báo kể chuyện", Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Tàu đã khẳng định: "Có những con người tình báo dũng cảm, thông minh, sáng tạo, có những người dân đô thành không sợ hiểm nguy mà còn tích cực tham gia công tác cách mạng… Tất cả hợp thành lực lượng bách chiến, bách thắng mà kẻ thù quen thói hợm hĩnh không lường được hết sức mạnh...".

Đại tá Phạm Ngọc Thảo 

Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Ngọc Thảo là 1 trong những huyền thoại xuất sắc nhất trong lịch sử quân sự Việt Nam. Cô thủ tướng Võ Văn Kiệt từng trân trọng đánh giá rằng: "Anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta".

Vị đại tá huyền thoại này sinh ngày 14/2/1922 tại tỉnh Long Xuyên. Ông là con thứ chín nên còn có tên gọi khác là Chín Thảo. Ông tham gia cách mạng từ năm 1945. Năm 1946, ông được cử ra Bắc học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1). Sau khi tốt nghiệp khóa 1 ở trường này, ông lập tức trở về miền Nam.

Cuối năm 1947, được cấp trên giao làm Trưởng phòng Mật vụ Nam Bộ (cơ quan tình báo của ta). Với tinh thần trách nhiệm, trong một thời gian ngắn, ông đã thống nhất được các lực lượng tình báo toàn Nam Bộ.

Năm 1949, ông được điều sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 chủ lực Khu 9, tiểu đoàn đã chiến đấu nhiều trận thắng lợi lớn, góp phần mở rộng vùng giải phóng. 

Chan-dung-4-diep-vien-huyen-thoai-trong-lich-su-quan-su-Viet-Nam-8

Sau Hiệp định Geneva 1954, ông nhận nhiệm vụ ở lại miền Nam, với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập đi sâu, leo cao vào chế độ ngụy quyền miền Nam, phục vụ yêu cầu tình báo chiến lược.

Bằng những hoạt động khéo léo và đầy biến hóa, tranh thủ những yếu tố tranh tối tranh sáng đầy bất ổn của chính trường Sài Gòn, Phạm Ngọc Thảo đã xây dựng cho mình vị trí khá nổi bật trong xã hội với những mối quan hệ thượng lưu sâu rộng.

Nhờ trí thông minh, kiến thức uyên bác của mình, Phạm Ngọc Thảo được trí thức Sài Gòn hoan nghênh, anh em Ngô Đình Diệm tin dùng. Chính Ngô Đình Diệm đích thân phong tặng ông cấp bậc trung tá và cử làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre).

Trong thời gian làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre), ông đã cung cấp nhiều tin tức, tài liệu liên quan đến các cuộc hành quân của địch trong tỉnh và quân khu, thả hơn 2.000 tù chính trị và khôn khéo lái các cuộc hành quân “tảo thanh” của địch vào chỗ không người, góp phần quan trọng vào việc bảo toàn lực lượng cách mạng, góp phần vào thắng lợi của phong trào Đồng khởi Bến Tre.

Dưới danh nghĩa một sĩ quan cao cấp quân đội, có tiếng nói, có ảnh hưởng lớn đối với chính trường Sài Gòn, ông đã tham gia, tổ chức hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển nền chính trị miền Nam những năm 1964-1965, gây mất ổn định nghiêm trọng chế độ Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam. 

Sau hai cuộc đảo chính bất thành, dù Mặt trận giải phóng yêu cầu rời khỏi Sài Gòn nhưng ông vẫn quyết trụ lại để tiến hành cuộc đảo chính cuối cùng. Việc lớn không thành, bị bắt, bị tra tấn nhưng Phạm Ngọc Thảo vẫn không để lộ tung tích. Cho đến lúc hy sinh (ngày 17/7/1965), không ai biết ông là một chiến sĩ tình báo cộng sản.

Năm 1995, ông được Đảng, Nhà nước truy tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và quân hàm đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đại tá, Anh hùng Phạm Ngọc Thảo đã trở thành nguyên mẫu để nhà văn Trần Bạch Đằng xây dựng thành công nhân vật điệp viên bản lĩnh, thông minh, gan góc Nguyễn Thành Luân trong bộ phim nổi tiếng “Ván bài lật ngửa".

Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn

Thiếu tướng tình báo, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Phạm Xuân Ẩn (tên thật là Trần Văn Trung) sinh ngày 12/9/1927. Ông gia nhập cách mạng từ những ngày đầu cuộc chiến năm 1945 và hoạt động với vai trò tình báo chiến lược. Ông được đánh giá là "Điệp viên hoàn hảo".

Các tài liệu lịch sử có chép, ông được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tuyển vào chiến khu D nhận nhiệm vụ hoạt động tại trung đầu não quân sự của địch ở Sài Gòn để nắm được các ý đồ chiến lược quân sự, chính trị, an ninh, kinh tế của thực dân Pháp. Trần Văn Trung đổi thành Phạm Xuân Ẩn.

Với "mác" công chức, lại dân học trường Tây, có giấy khai sai do Tây cấp và là con cựu trắc địa sư tên tuổi đã giúp rất nhiều cho ông trong quá trình trở thành nhân viên tham mưu tin cậy trong Bộ Chỉ huy Quân đội Liên hiệp Pháp.

Sau khi Hiệp định Geneva năm 1954 được ký kết, ông trở thành “cộng sự” thân thiết của phái bộ quân sự Mỹ tại Sài Gòn (Sài Gòn Military Mission). Ông được cố vấn Mỹ đề nghị tham gia soạn thảo các tài liệu về tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần để xây dựng "Quân đội Việt Nam Cộng hòa".

Phạm Xuân Ẩn còn được giao nhiệm vụ hợp tác với Mỹ lựa chọn những sĩ quan trẻ có triển vọng để đưa sang Mỹ đào tạo (trong số đó có Nguyễn Văn Thiệu, người sau này trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa).

Chan-dung-4-diep-vien-huyen-thoai-trong-lich-su-quan-su-Viet-Nam-7

Năm 1959, sau khi tốt nghiệp báo chí tại Mỹ, ông trở về nước và được mời làm phóng viên cho hãng thông tấn Reuters (Anh) và các báo khác của Mỹ. Dưới vỏ bọc phóng viên tuần báo Time của Mỹ và danh nghĩa "người của CIA", ông nắm bắt được nhiều tin tức quan trọng. Những tin tức này được phân tích và bí mật gửi cho Trung ương cục miền Nam thông qua mạng lưới H63, sau đó gửi ra Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Hà Nội.

Với nguồn tin thu thập ngày càng mở rộng, các bản báo cáo của ông sống động và tỉ mỉ đến mức khi nhận được, lãnh đạo ta đã nhận định: "Chúng ta đang ở trong phòng hành quân của Mỹ".

Phạm Xuân Ẩn đã gửi về căn cứ tổng cộng 498 báo cáo, tài liệu nguyên gốc được sao chụp, các thông tin thu lượm về tình hình Mỹ - Ngụy.

Sau ngày 30/4/1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, chiến sĩ tình báo Phạm Xuân Ẩn mới được phép trở về với con người thật của mình. Ngày 15/1/1976, ông vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ông mất ngày 20/9/2006 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ

Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ - người từng làm cố vấn cho ba tổng thống của chế độ Sài Gòn trước năm 1975 - đã trở thành huyền thoại. Những chiến công của ông khiến kẻ thù cũng phải khâm phục.

Tên thật của ông là Vũ Xuân Nhạ, sinh ngày 30/3/1928, tại xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình nhà Nho hiếu học. Vì yêu nước nên ông đã gia nhập Mặt trận Việt Minh và được kết nạp Đảng năm 1947.

Năm 1952, Vũ Ngọc Nhạ mang tên Vũ Ngọc Kép, có mặt trong đoàn đại biểu quân sự tỉnh Thái Bình đi dự Hội nghị chiến tranh du kích Bắc Bộ tại Việt Bắc do Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái chủ trì. Ở đây, ông nhận nhiệm vụ: "Nhiệm vụ của chú là phải bằng mọi cách để biết được Mỹ đang làm gì, Mỹ sẽ làm gì và Mỹ đã làm gì".

Chan-dung-4-diep-vien-huyen-thoai-trong-lich-su-quan-su-Viet-Nam-6

Được chỉ đạo vào miền Nam, với sự thông minh và iểu biết sâu sắc mọi vấn đề từ quân sự đến giạo giao, kinh tế, tôn giáo, ông đã “luồn sâu, leo cao” và trở thành cố vấn cho 3 đời tổng thống ngụy quyền Sài Gòn.

Với chức danh "cố vấn cấp cao", ông đã khai thác được nhiều tài liệu mật trong Phủ Tổng thống. Ông cũng xây dựng được cụm tình báo chiến lược nổi tiếng A22, từng làm rúng động chính trường Sài Gòn trong suốt những năm cuối của thập niên 1960.Với mạng lưới 42 điệp báo viên, hoạt động dưới nhiều chức danh, cấp bậc từ cao tới thấp trong chính quyền ngụy Sài Gòn, ông và đồng đội đã cung cấp nhiều thông tin, tài liệu chiến lược, sách lược tuyệt mật: từ kế hoạch “Xây dựng ấp chiến lược," “Kế hoạch Stalay Taylor”… thời Diệm, đến “Kế hoạch bình định nông thôn," “Kế hoạch Phượng Hoàng," “Kế hoạch đổ quân của Mỹ," “Sách lược chiến tranh đặc biệt”... thời Thiệu... để Đảng ta kịp thời có đối sách lãnh đạo đường lối đấu tranh.

Với những chiến công xuất sắc, sau khi đất nước thống nhất, Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ tiếp tục công tác tại Bộ Quốc phòng.

Đến năm 1987, khi cuốn tiểu thuyết “Ông cố vấn-hồ sơ một điệp viên” của nhà văn Hữu Mai xuất bản, thân thế và sự nghiệp của ông mới được công chúng biết tới. Ông mất ngày 7/8/2002, tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại tá Nguyễn Văn Minh

Đại tá Nguyễn Văn Minh có "kinh nghiệm" sống hơn 20 năm trong lòng địch, 16 năm sống trong sào huyệt của Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Giữa “biển giáo, rừng gươm," một mình hoạt động đơn tuyến, ông đã tạo nên “tấm bình phong” an toàn ngay giữa sào huyệt của địch để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cách mạng giao phó.

Đại tá Nguyễn Văn Minh sinh năm 1933 tại Hưng Yên, trong một gia đình thợ thủ công. Ông lớn lên, vào Sài Gòn làm công nhân và tham gia hoạt động bí mật trong Mặt trận Liên Việt.Năm 1959, ông được Quận ủy Thủ Đức cử làm nhiệm vụ lọt vào quân đội ngụy quyền Sài Gòn.

Năm 1963, lợi dụng sự kiện chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các phe phái ngụy quân, ngụy quyền chèn ép nhau để tranh quyền, đoạt lợi, ông tìm cách vào được hàng ngũ kẻ thù với chức danh nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Có. Không lâu sau, Nguyễn Co Kỳ lật đổ Nguyễn Hữu Có nhưng với vỉ bọc 1 nhân viên quân sự mẫn cán, ông tiếp tục được tin dùng. Từ đó, ông trở thành 1 trong 4 nhân viên văn thư bảo mật của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng.

Chan-dung-4-diep-vien-huyen-thoai-trong-lich-su-quan-su-Viet-Nam-4

Công việc của ông là tiếp nhận, lưu trữ công văn, đi và đến giữa Văn phòng Tổng tham mưu trưởng với các cơ quan, đơn vị trong quân đội, đặc biệt là trao đổi công văn với Phó Tổng thống, với các cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân đoàn, quân khu. Công việc này tạo nhiều cơ hội cho ông được tiếp cận với tài liệu mật. 

Cũng vì đặc thù công việc như thế mà ông luôn bị các mật vụ theo dõi. Để tránh bị lộ, ông khéo léo nhận về mình nhiều phần việc nhưng không sao chụp tài liệu mà rèn luyện ghi nhớ toàn bộ các công văn được tiếp cận hằng ngày. Đến đêm, ông thức trắng để viết lại nội dung công văn trong ngày, chuyển ra ngoài cho tổ chức. Các ý đồ lớn của địch, như kế hoạch bình định nông thôn, kế hoạch lấn chiếm, xóa các vùng giải phóng… đều được ông báo cáo chính xác.

Vào năm 1975, ông đã báo cáo về căn cứ một tin quan trọng có tính quyết định là Mỹ không đưa quân trở lại nếu ta đánh lớn vào giải phóng Sài Gòn. Thông tin này đã giúp Bộ Chính trị có thêm cơ sở quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 trong thời gian ngắn nhất để giải phóng miền Nam, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giành thắng lợi trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Trong ngày 30/4/1975, khi Quân giải phóng đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy, chính ông đã động viên các viên chức trong văn phòng của tướng Cao Văn Viên gìn giữ, niêm phong kho tàng, hồ sơ, bảo toàn tài liệu, máy móc trong văn phòng để bàn giao cho quân giải phóng.

Đại tá Nguyễn Văn Minh - H3 - đã trở thành một trong những điệp viên huyền thoại, khiến kẻ thù kinh ngạc về bản lĩnh, trí tuệ và "tinh thần thép” của ông.

Năm 1999, ông được Đảng và Nhà nước phong tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Xem thêm: Chân dung cựu binh chuyên làm căn cước giả giúp điệp viên cộng sản thâm nhập vào sâu trong lòng địch

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận