Lý Thánh Tông - vị vua nhân đức, tín Phật, mộ Đạo
Lý Thánh Tông nổi tiếng là vị vua nhân từ, thương dân như con. Và điều này đã được sử sách và các sử gia chép rất rõ ràng.
Lý Thánh Tông (tên thật là Lý Nhật Tôn, 30/3/1023 - 1/2/1072) là vị hoàng đến thứ 3 của triều Lý (nước Đại Việt). Ông trị vì từ tháng 11/1054 đến khi qua đời năm 1072.
Sử chép, ông là con trưởng của vua Lý Thái Tông và Linh Cảm Hoàng hậu họ Mai. Tháng 5 âm lịch năm 1028, ngay sau khi lên ngôi, Lý Thái Tông sách phong Lý Nhật Tôn làm Thái tử.
Đại Việt sử lược chép, Thái tử Nhật Tôn sớm trở nên "tinh thông kinh truyện, hiểu âm luật, lại càng giỏi về võ lược". Vua cha cho ông tới sống ở cung Long Đức ngoài thành để hòa mình vào dân gian.
Sau này dù đã lên ngôi báu nhưng vua Lý Thánh Tông vẫn duy trì thói quen về cung Long Đức mỗi khi có lễ hội, xem nhân dân trồng lúa gặt hái. Nhiều năm sống gần dân, ông thấu hiểu được cuộc sống của trăm họ nên rất thông cảm với người dân.
Các nguồn sử liệu hiện có đều ghi nhận, Lý Thánh Tông là vị vua nhân đức. Chẳng hạn vào mùa đông rét buốt, ông lại nghĩ đến những tù nhân trong ngục.
Chuyện này được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau: "Mùa đông, tháng 10, đại hàn, vua bảo các quan tả hữu rằng: “Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa”.
Đến năm có thiên tai, vua Lý Thánh Tông lại có lệnh giảm nửa tô thuế cho nhân dân cả nước.
Còn nhớ, khi mới lên ngôi, việc đầu tiên vua làm là sai đốt các hình cụ tra tấn, tỏ ý muốn dùng dân đức để cai trị, không muốn dùng nhục hình với dân.
Vua thường ngự ở điện Thái Khánh xử kiện, sau rồi thấy việc xử phạt làm thương tổn sinh mệnh, bèn quyết định khoan giảm cho dân. Đại diện sử ký toàn thư có chép: Năm 1064 “mùa hạ, tháng 4, vua ngự ở điện Thiên Khánh xử kiện. Khi ấy công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa, bảo ngục lại rằng: Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót, từ nay về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm”.
Đến năm 1070, vua lại cho phép người bị phạt trượng hình được nộp tiền phạt để giảm tội. Bên cạnh việc miễn giảm tội hình, vua còn quan tâm đến mùa màng của dân chúng. Cụ thể, tháng 10/1056, vua ban chiếu khuyến nông.
Mua thu hoạch, vua đi khắp nơi xem gặt lúa, gặp lúc thu hoạt khó khăn hay mất mù thì lo lắng miễn thuế hoặc mở kho phát lương thực cho dân. Đại Việt sử ký toàn tư có chép: "Mùa hạ, tháng 4 (1070) đại hạn, phát thóc, và tiền lụa trong kho để chẩn cấp cho dân nghèo".
Còn về mặt văn hóa, vua cho xây dựng Văn Miếu, dựng tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 vị tiên hiền trong đó để khai sáng cho nhân dân. Lý Thánh Tông còn duy hộ Phật pháp, Đạo pháp cho xây dựng chùa tháp, dựng tượng, đúc chuông, gây dựng nên nền tảng tín ngưỡng giúp xã tắc ổn định.
Và chính nhà vua cũng là người tu luyện, được xem là Tổ thứ 2 của thiền phái Thảo Đường, một trong 3 dòng thiền chính của Đại Việt lúc bấy giờ.
Nhắc đến công lao của vua Lý Thánh Tông, sử thần Ngô Sĩ Liên viết: "Xót thương vì hình ngục, nhân từ với nhân dân, là việc đầu tiên của vương chính. Thánh Tông lo tù nhân trong ngục hoặc có kẻ vô tội mà chết vì đói rét, [6a] cấp cho chiếu chăn ăn uống để nuôi sống, lo quan lại giữ việc hình ngục hoặc có kẻ vì nhà nghèo mà nhận tiền đút lót, cấp thêm cho tiền bổng và thức ăn để nhà được giàu đủ. Lo dân thiếu ăn thì xuống chiếu khuyến nông, gặp năm đại hạn thì ban lệnh chẩn cấp người nghèo, trước sau một lòng, đều là thành thực. Huống chi lại tôn sùng đạo học, định rõ chế độ, văn sự thi hành mau chóng bên trong; phía nam bình Chiêm; phía bắc đánh Tống, uy vũ biểu dương hiển hách bên ngoài. Tuy có việc lầm lỗi nhỏ khác cũng vẫn là bậc vua hiền. Hoặc có người bảo là vua nhân nhu có thừa mà cương đoán không đủ, ngu ý chưa cho là phải".
Sử thần Lê Tung đời Lê Tương Dực, tác giả bộ Đại Việt thông giám tổng luận (1514), cũng đánh giá Lý Thánh Tông: "Thánh Tông thương dân, trọng nông, vỗ người xa, yêu người gần, đặt khoa bác học, trọng lệnh dưỡng liêm, đặt quan bí các, làm đường Minh Luân, sửa sang việc văn, chuẩn bị việc võ, trong nước đều yên tĩnh, là bậc vua hiền nối đức trước vậy. Song nhọc sức dân để xây tháp Báo Thiên, phí của dân để dựng cung Dâm Đàn, đó là chỗ kém".
Thời đại của cha ông là Lý Thái Tông, ông và con ông là Lý Nhân Tông được xem là thời thịnh vượng của Nhà Lý với tên gọi là Bách niên Thịnh thế.
Xem thêm: Cuộc chinh phạt Chiêm Thành và chút sĩ diện "đáng yêu" của vua Lý Thánh Tông
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận