Triệu Việt Vương và giai thoại "khó tin nhưng có thật" về giấc mơ nhận được tướng tài, vợ hiền

Triệu Việt là bậc thầy của chiến tranh du kích, là vị vua nổi tiếng trong thời kỳ đấu tranh chống ách đô hộ phương Bắc, giành độc lập dân tộc. Song sử sách ghi chép rất sơ lược về thân thế, sự nghiệp của ông. Chính vì vậy, không mấy người rõ về câu chuyện tình duyên đặc biệt của vị vua này.

Đỗ Thu Nga
10:00 07/11/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Triệu Việt Vương - bậc thầy của chiến tranh du kích Việt Nam

Triệu Việt Vương (524 – 571), tên thật là Triệu Quang Phục. Ông là vị vua Việt Nam cai trị từ năm Ông có công kế tục Lý Nam Đế đánh đuổi quân xâm lược nhà Lương, giữ nền độc lập cho nước Vạn Xuân. Năm 571, ông bị Lý Phật Tử đánh úp và thua trận. Ông tự tử ở cửa sông Đáy.

Về thân thế của Triệu Việt Vương, sử sách chép: Ông là con của Thái phó Triệu Túc, người huyện Chu Diên. Ông được mô tả là người uy tráng dũng liệt. Ông cùng cha theo Lý Nam Đế khởi nghĩa từ ngày đầu (541), có công lao đánh đuổi giặc Lương, được giao chức Tả tướng quân của nước Vạn Xuân.

Hưng Yên chính là quê hương của Triệu Việt Vương. Vùng đất này lưu dấu nghệ thuật quân sự tài tình, sáng tạo của vị vua anh hùng đã trị vì đất nước 23 năm. Đại Việt sử ký toàn thư nhận định về Việt Vương Triệu Quang Phục như sau:“Vua giữ đất hiểm dùng kỳ binh để dẹp giặc lớn”.

Sử sách cũng chép, vùng "đất hiểm" đó chính là đầm Dạ Trạch (thuộc Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay). Còn “kỳ binh” chính là kế sách dụng binh hết sức mưu lược và sáng tạo của Triệu Quang Phục, bằng chiến thuật đánh lâu dài, đánh du kích đã dẹp tan quân Lương xâm lược.   

Trong cuốn "Tìm hiểu tổ tiên ta đánh giặc", Thương tướng Hoàng Minh Thảo viết: “Dạ Trạch là căn cứ địa kháng chiến đầu tiên của người Việt Nam, không phải trên rừng, hay ở đồng bằng mà lập ngay trên đầm lầy. Triệu Quang Phục cũng là người Việt Nam đầu tiên mà qua ghi chép của sử sách đã áp dụng chiến tranh du kích "lại vô ảnh, khứ vô hình" tiêu hao sinh lực địch, tiến tới giành chiến thắng hoàn toàn.”.

Bấy giờ là năm 541, Triệu Quang Phục tham gia khởi nghĩa của Lý Nam Đế (Lý Bí) được giao chức Tả tướng quân. Tháng 5/545, quân Lương do Dương Phiêu và Trần Bá Tiên chỉ huy lại sang đánh Vạn Xuân. Lý Nam Đế thua trận, lui vào động Khuất Lạo. Trước khi mất, Lý Nam Đế trao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục. Nhận sự ủy thác, Triệu Quang Phục đem quân về xây dựng căn cứ ở đầm Dạ Trạch. Sự kiện trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi “Triệu Quang Phục cầm cự với Trần Bá Tiên, chưa phân thắng bại. Nhưng quân của Bá Tiên rất đông, Quang Phục liệu thế không chống nổi bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch. Đầm này ở huyện Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được. Nhưng nếu không quen biết đường lối thì lạc, không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết”.

Có được căn cứ hiểm trở, Triệu Quang Phục đã sử dụng lối đánh du kích, ngày ngày ông đều cùng quân sĩ luyện tập. Ban ngày tắt hết khói lửa, im hơi lặng tiếng như không có người, đêm đến dùng thuyền độc mộc đem quân tập kích bất ngờ vào các trại và các cuộc hành quân của quân Lương.

giai-thoai-ve-giac-mong-nhan-tuong-tai-vo-hien-cua-trieu-viet-vuong-9
Triệu Việt Vương là một trong những bậc thầy thuộc hàng cổ nhất của lịch sử chiến tranh du kích Việt Nam…

Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: "Quang Phục thuộc đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, ban ngày tuyệt không để lộ khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên theo hút mà đánh, nhưng không đánh được. Người trong nước gọi là Dạ Trạch vương”.

Lối đánh này của Triệu Việt Vương mang đến hiệu quả cao, làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch. Đồng thời làm cho uy thế của Triệu Quang Phục ngày càng lẫy lừng, người dân tôn ông là Dạ Trạch Vương.

Sau đó, ông xưng vương lấy hiệu là Triệu Việt Vương, tiếp tục cùng bách tính Vạn Xuân dựng nước và giữ nước. Nhân cơ hội nhà Lương suy yếu, Triệu Việt Vương mở một loạt cuộc tấn công vào quân Lương và thu về toàn thắng. Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Vua tung quân ra đánh. Sàn chống cự, thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Nước ta được yên. Vua vào thành Long Biên ở. Như thế chỉ trong vòng 8 năm (542-550), Lý Bí, Triệu Quang Phục đã hai lần đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, giành lại quyền tự chủ trên toàn đất nước. Nhà nước Vạn Xuân trải qua những năm tháng gian nan nhất, tưởng như bị tiêu diệt hoàn toàn, lại được độc lập và có điều kiện tiếp tục dựng xây”.

Năm 557, Lý Phật Tử - người họ hàng của Lý Nam Đế từ động Dã Năng kéo quân về gây chiến với Triệu Việt Vương. Sau nhiều lần đánh bất phân thắng bại, hai bên giảng hòa, chia nhau đất đai, lấy bãi Quần Thần (vùng Thượng Cát, Hạ Cát, thuộc Từ Liêm, Hà Nội ngày nay) làm địa giới.

Lý Phật Tử chủ động xin kết hôn tạo mối quan hệ thông gia với Triệu Việt Vương. Chuyện này, Đại Việt sử ký toàn thư có chép: "Vua nghĩ rằng Phật Tử là người họ của Lý Nam Đế, không nỡ cự tuyệt, bèn chia địa giới ở bãi Quần Thần cho ở phía Tây của nước, [Phật Tử] dời đến thành Ô Diên (xã ấy có đền thờ thần Bát Lang, tức là đền thờ Nhã Lang vậy)”. Triệu Quang Phục đã gả con gái là Cảo Nương cho Nhã Lang là con trai của Lý Phật Tử để tỏ tình hòa hiếu với nhau.

Năm 571, Lý Phật Tử đánh úp, quân Triệu Việt Vương thua chạy về phía cửa sông Đáy, cùng đường, ông tự vẫn ở cửa biển Đại Nha (khu vực Độc Bộ, Nghĩa Hưng, Nam Định). Người đời sau lập nhiều đền thờ ông. Hiện nay, trong đền Hóa Dạ Trạch ở huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, ngoài thờ Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân, còn phối thờ Triệu Quang Phục.

Giai thoại "khó tin nhưng có thật" về Triệu Việt Vương

Giống như các bậc vua chúa khác, Triệu Việt Vương có nhiều vợ nhưng để lại dấu ấn lớn nhất đối với ông chính là Đệ tứ cung phi Ngọc Nương, một người mà tình duyên của họ đến từ trong giấc mộng.

Theo dã sử và thần tích ở xã Trâm Nhị (nay thuộc huyện Ân Thi, Hưng Yên) thì Ngọc Nương tên thật là Nguyễn Thị Ngọc, sinh ngày 15 tháng 7 năm Đinh Tỵ, cha là Nguyễn Bộ, vốn dòng dõi hào trưởng ở trang Bảo Đài, huyện Lôi Dương, châu Ái (nay thuộc huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa), mẹ là Đặng Thị Châu (thường gọi là Châu Nương), quê ở giáp Đường, trang Đặng Xá, huyện Đường Hào, xứ Đông Hải (nay thuộc huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên).

Tương truyền, một đêm nọ, bà Châu Nương năm ngủ, một thấy bay lên trời, đến cung Quảng bẻ một cành quế đỏ và hái được một bông hoa lan, giật mình tỉnh dậy thì biết đó là nằm mộng. Sau đó có thai sinh được 1 người con trai tướng mạo khôi ngô, khác thường đặt tên là Nguyễn Chiêu (thường gọi là Chiêu Công).

Hai năm sau, bà Châu Nương lại có mang, trước khi chuyển dạ chợt thấy một con chim xanh bay vào trong phòng kêu 3 tiếng rồi bay mất. Kế đó, sinh ra một bé gái xinh xắn, đặt tên là Nguyễn Thị Ngọc (gọi là Ngọc Nương). 

Từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, Chiêu Công nổi tiếng văn hay, võ giỏi, nhiều người theo phục. Còn Ngọc Nương thông minh, học một biết mười, đức hạnh, nữ công gia chánh cái gì cũng giỏi. Bên cạnh đó lại sở hữu nhan sắc khuynh thành.

Lại nói về Triệu Quang Phục, sau khi quét sạch giặc ngoại xâm, ông đi thăm một số miền để tìm hiểu về đời sống dân chúng. Hôm nọ ngự giá đến huyện Đường Hào thì đừng lại nghỉ ngơi. Đêm ấy vua nằm mộng thấy một nam, một nữ đến nói là anh em ruột quê ở Bảo Đài xin giúp nước. Anh tên Chiêu, em tên Ngọc.

Sớm hôm sau, Triệu Việt Hương đến giáo Đường, trang Đặng Xá thì người dân kéo ra đầy đường để bái chào và xem mặt vua, Ngọc Nương cũng tò mò ra xem. Trong đám đông ấy, vua chợt nhìn thấy một cô gái có dung mạo như người trong mộng nên đã gọi đến hỏi chuyện. 

giai-thoai-ve-giac-mong-nhan-tuong-tai-vo-hien-cua-trieu-viet-vuong-7
Triệu Việt Vương trong tranh dân gian Đông Hồ

Khi cô gái nói tên Ngọc Nương, quê Bảo Đài thì Triệu Việt Vương vừa mừng vừa kinh ngạc không rõ đây có phải là cô gái trong mộng của mình không. Ông liền hỏi: "Phải chăng nhà nàng còn có một người anh tên là Chiêu?”. 

Lúc này, Ngọc Nương ngạc nhiên trả lời đúng là có người anh như vậy. Vua liền cho truyền họi Chiêu Công đến thì thấy giống hệt người thanh niên trong mộng. Cho là điềm báo tốt lành, Triệu Việt Vương ban thưởng cho dân trang Đặng Xá 3.000 quan tiền và nói với mọi người rằng:đến thì thấy giống hệt người thanh niên trong mộng. Cho là điềm báo tốt lành, Triệu Việt Vương ban thưởng cho dân trang Đặng Xá 3.000 quan tiền và nói với mọi người rằng: “Chiêu Công, Ngọc Nương thực là thần nhân chốn nhân gian, được trời cho giáng xuống ở đất này, nay trẫm ban thưởng cho dân chúng được làm hộ nhi nơi Chiêu Công ở”.

Sau đó, vua cho 2 người đi theo về kinh rồi phong Chiêu Công làm Quản lĩnh thủy bộ tướng quân. Còn Ngọc Nương được phong làm đệ tứ cung phi, mỹ hiệu là Xuân Hoa. 

Mấy năm sau, giặc Lương xâm lấn biên cương, Chiêu Công chức Thái úy đứng đầu quan võ và kiêm chức Nguyên soái bình Lương đại tướng quân đã đem quân đi đánh giặc. Tại địa đầu biên giới, Chiêu Công chỉ huy quân đội đánh bại quân Lương, hơn 10 tướng giặc bị chém rơi đầu, hàng nghìn tên giặc phải bỏ mạng; còn Ngọc Nương vừa hầu hạ vua nơi màn trướng lại vừa động viên các họ tộc Lê, Nguyễn, Trần, Vũ, Trịnh, Phạm, Đỗ, Đặng, Hoàng, Đinh ở trang Đặng Xá đưa con em mình tòng quân giữ nước. Sau chiến thắng, vì lập công to, Chiêu Công được Triệu Việt Vương phong tước Triết Gia quân công.

Giặc ngoại xâm bị dẹp chưa bao lâu thì nội chiến xảy ra. Sau một thời gian chuẩn bị lực lượng, một người trong họ của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương để giành ngôi vua về cho họ Lý. Hai bên hỗn chiến không phân thắng bại Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương để giành ngôi vua về cho họ Lý. Biết không thắng nên Lý Phật Tử dùng mưu hòa thân, kết thông gia. 

Biết điều đó, Chiêu Công can vua: "Nay 2 bên tranh nước, long hổ giành nhau, họ bỗng đem cống vật đến cầu hòa, sự này không thể tin được!”, các quan tướng trong triều cũng khuyên vua nên đề phòng, nhưng Triệu Việt Vương không nghe vẫn quyết định gả con gái Cảo Nương cho con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang.

Buồn phiền, Chiêu Công bèn xin cáo quan về quê dành thời gian chăm sóc cha mẹ. Còn về Ngọc Nương, sống trong cung cấm được vua sủng ái nhưng 10 năm liền không sinh được con nên đã xin xuất gia tu Phật. Triệu Việt Vương biết khó giữ vợ nền đồng ý cho nàng về quê Bảo Đài tu hành.

Ít lâu sau, vua lại cấp tiền bạc cho Ngọc Nương sửa sang ngôi chùa ở giáp Đường, trang Đặng Xá để làm nơi tu hành, lại còn truyền đặt pháp hiệu là Diệu Phương, tên tự là Pháp Tuân. Năm Canh Dần (570), Triệu Việt Vương do chủ quan không phòng bị, khi quân của Lý Phật Tử tiến đánh đã thua trận nhanh chóng, ông chạy đến cửa biển Đại Nha thì tự tử.

Khi ấy, Chiêu Công biết tin liền vội vã dẫn gần 2000 quân binh đến cứu giá. Tới nơi thì nghe tin Triệu Việt Vương đã mất lại bị số đông quân của Lý Phật Tử bao vây. Thế lực yếu không chống cự được nên đã gieo mình xuống sông Hồng tuẫn tiết. Cảm động về vị trung thần tiết nghĩa, sau này, nhân dân đã lập đền thờ Chiêu Công nay tại nơi ông mất.

Về phần Ngọc Nương, dù ở chốn cửa thiền, rời xa trần tục nhưng vẫn quan tâm đến tình hình đất nước. Nghe tin chồng rồi anh trai mất, lòng đau xót vô cùng. Bà bèn tắm gội sạch sẽ, ngồi tụng kinh niệm Phật sau đó uống thuốc độc tự vẫn mà chết, người dân giáp Đường thương tiếc người phụ nữ trung trinh đã tổ chức an táng chu đáo, lại dựng miếu thờ cúng.

Đến thời Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân có làm lễ khấn tại nơi thờ anh em Chiêu Công, Ngọc Nương xin âm phù thắng trận thấy linh ứng.

Sau khi nhà Đinh thành lập, tướng Đinh Điền dâng sớ tâu xin phong mỹ tự cho 2 thần, vua Đinh Tiên Hoàng đã sắc phong cho Chiêu Công làm Thượng đẳng phúc thần, hiệu là Phong Hiển linh ứng thông, Chiêu Thánh đô úy khang tiết đại vương; Ngọc Nương là Đoan Trinh quảng đức Diệu Phương, Pháp Tuấn từ bi Xuân Hoa công chúa”.

Xem thêm: Hai vị đế vương đất Việt "thân bại danh liệt" vì con rể

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận