Hai vị đế vương đất Việt "thân bại danh liệt" vì con rể
Thục Phán An Dương Vương và Triệu Việt Vương là hai vị vua rơi vào tấn bi kịch "thân bại danh liệt" vì tin tưởng con rể, đặt lợi của gia đình lên trên lợi ích quốc gia.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta có hai vị vua chết thảm vì con rể là An Dương Vương vào năm 179 trước Công nguyên và Triệu Việt Vương ngày 5 tháng 1 năm Tân Mão ( 571 sau Công nguyên).
Theo đó, cả hai vị vua đều bị truy đuổi tuẫn tiễn ở cửa biển. Trong truyền thuyết, vua An Dương Vương tuẫn tiết ở cửa biển Mộ Dạ (Diễn Châu, Nghệ An). Còn Triệu Quang Phục tuẫn tiết ở cửa biển Đại Nha (còn gọi là Đại An, thuộc Nam Điền, xã Câu Lậu, hiện thuộc tỉnh Nam Định).
Chuyện về cái chết của hai vị vua này đan xen giữa 2 bi kịch mất nước và tình yêu. Chính bi kịch mất nước đã tạo nên bi kịch tình yêu và bi kịch tình yêu đã mở đường cho bi kịch mất nước. Hai tấn bi kịch này đều do hai vị vua mất cảnh giác, không nghe lời khuyên giải, can dán của các bậc trung thần để tình riêng lấn át tầm nhìn của đấng minh quân, đặt lợi ích gia đình lên trên lợi ích quốc gia, dẫn đến kết cục bi thảm.
Thục Phán An Dương Vương
An Dương Vương tên thật là Thục Phán, là người lập nên nước Âu Lạc - nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam, sau nhà nước Văn Lang. Về họ tên của Thục Phán thì còn có nghi vấn: Cho tới đầu công nguyên thời Hai Bà Trưng, người Việt vẫn chưa có họ. Do đó họ Thục của An Dương Vương là một vấn đề nghi vấn, không rõ đây có phải tên họ do đời sau gán cho An Dương Vương hay không. Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương hay họ Thục.
Tựu trung, cả hai thuyết đều chưa được chứng minh bằng các di tích khảo cổ hoặc văn tự ghi chép lại. Song có thể khẳng định: An Dương Vương là lãnh đạo người Âu Việt ở lân cận nước Văn Lang, cùng sống trên địa bàn miền Bắc Việt Nam hiện nay. Sau một thời gian, ông đã lãnh đạo người Âu Việt tiêu diệt nước Văn Lang, thống nhất cả hai nhóm Âu Việt và Lạc Việt dưới một quốc gia, hai nhóm này hòa nhập với nhau và chính là tổ tiên của người Kinh ở Việt Nam ngày nay.
Niên đại trị vì của An Dương Vương được các tài liệu ghi khác nhau. Sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho rằng thời gian ông làm vua Âu Lạc kéo dài 50 năm, từ 257 TCN đến 208 TCN. Các sử gia hiện đại căn cứ vào Sử ký Tư Mã Thiên là tài liệu gần thời đại nước Âu Lạc nhất, cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại từ khoảng 208 TCN đến 179 TCN, tức là gần 30 năm.
Trong thời gian trị vì, An Dương Vương được sử sách đánh giá là vị vua tài giỏi. Tuy nhiên, ông mắc sai lầm khi đặt lợi ích của gia đình lên trên lợi ích quốc gia. An Dương Vương mất nước từ sự khinh địch, mất cảnh giác, không chịu nghe sự khuyên can của trung thần gồm Đại tướng quốc Cao Lỗ, Thái sư phò mã Võ Quốc, Thống lĩnh bộ binh Hoàng Trị, các Đại tướng quân Chiêu Công, Phạm Giác….
Chính bản thân vị hoàng đế này cũng rất mong mỏi sự hòa bình giữa hai quốc gia, chấm dứt chiến tranh loạt lạc từ tình yêu của con trẻ. Thế nhưng, chính điều đó đã tạo ra kẽ hở để cha con Triệu Đà lợi dụng.
Bản thân Thục Phán An Dương Vương cũng phải gánh chịu bi kịch khi phải tuốt gươm trừng phạt kẻ phản bội chính là con gái đẻ của mình, rồi tuấn tiết bên cửa biển Nghệ An. Nhà vua đã đứng trên quyền lợi quốc gia, gạt bỏ tình riêng ở thời điểm đó. Hành động này rất được nhân dân coi trọng qua cách xử lý theo truyền thuyết của dân gian.
Nàng Mỵ Châu đã phải trả giá cho sự nông nổi của mình nhưng nàng cũng kịp thức tỉnh để nhận ra bi kịch đau đớn này. Một cô gái ngây thơ, trong trắng bị lợi dụng trở thành kẻ phản bội. Cuối cùng nhận ra kẻ thù nhưng đã quá muộn màng.
Theo truyền thuyết, nàng Mỵ Châu sau khi chết đã hóa thành ngọc thạch, máu hóa thành ngọc trai ở biển Đông. Mỵ Châu thật đáng trách nhưng cũng thật đáng thương. Truyền thuyết không chỉ kể lại trang sử mất nước mà còn chứa đựng cả 2 cái nhìn thương cảm cho lứa đôi - khi tình yêu phải đối mặt với âm mưu.
Trọng Thủy đã phải trả giá cho sự lừa dối khi hắn chỉ còn mang được xác của Mỵ Châu về chôn cất. Với kẻ cướp nước, nhân dân ta không để cho hắn chiếm đoạt và tiếp tục lừa phỉnh Mỵ Châu. Nhưng điều đáng nói ở đây là cái chết lao đầu xuống giếng của Trọng Thủy và kết thúc câu chuyện “Người đời sau mò được ngọc trai ở biển Đông lấy nước giếng mà rửa thì thấy trong sáng thêm”.
Sự lừa dối của Trọng Thủy chính là bàn học để cảnh tỉnh người đời. Tình yêu chân thành mới được đền đáp xứng đáng. Tình yêu không bao giờ đồng hành với những âm mưu, toan tính, tham vọng cướp nước, hại dân.
Tấn bi kịch của Triệu Việt Vương
Triệu Việt Vương (524 – 571), tên thật là Triệu Quang Phục, là vua Việt Nam cai trị từ năm 548 đến năm 571. Ông có công kế tục Lý Nam Đế đánh đuổi quân xâm lược nhà Lương, giữ nền độc lập cho nước Vạn Xuân. Năm 571, ông bị Lý Phật Tử đánh úp và thua trận. Ông tự tử ở cửa sông Đáy.
Triệu Quang Phục là con của Thái phó Triệu Túc, người huyện Chu Diên. Ông được sử sách mô tả là người uy tráng dũng liệt. Ông cùng cha theo Lý Nam Đế khởi nghĩa từ ngày đầu (541), có công lao đánh đuổi quân Lương về nước, được giao chức Tả tướng quân nước Vạn Xuân. Năm 571, ông bị Lý Phật Tử đánh úp, tuẫn tiết ở cửa sông Đáy (Nam Định).
Tấn bi kịch của Triệu Quang Phục cũng tương tự như Thục Phán An Dương Vương. Khi ông làm vua ở thành Long Biên, Lý Thiên Bảo (anh trai của Lý Nam Đế) cũng xưng làm Đạo Lang Vương ở nước Dã Năng, Lào. Năm 555, Lý Thiên Bảo chết, không có con nối dõi, quần chúng suy tôn người cháu là Lý Phật Tử lên nối ngôi.
Vào năm 557, Lý Phật Tử đem quân đánh nhau với Triệu Việt Vương để tranh giành thiên hạ. Sau 5 lần đánh nhau, liệu thế không thể thắng được Triệu Việt Vương trên chiến trường, Lý Phật Tử bèn xin giảng hòa để tìm mưu hèn kế bẩn để tiêu diệt.
Biết Lý Phật Tử, một kẻ ti tiện, ích kỷ, tham lam, hèn nhát, dối trá, phản nghịch, từng thề thốt suốt đời hòa hiếu với Triệu Việt Vương, Thái sư Chiêu Công cùng các Đại tướng Trương Hống, Trương Hát... can dán nhưng Triệu Việt Vương không nghe vẫn nhất mực cho rằng Lý Phật Tử là cháu của Lý Nam Đế, không nỡ cự tuyệt, đã đồng ý giảng hòa, chia địa giới cho Lý Phật Tử cai quản.
Với âm mưu tiêu diệt bằng được Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử cho con trai là Lý Nhã Lang xin lấy con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương. Không chỉ bằng lòng với cuộc hôn nhân chính trị này, Triệu Việt Vương còn cho Nhã Lang ở rể.
Tuy nhiên, Triệu Việt Vương không thể ngờ được âm mưu của Lý Phật Tử và Lý Nhã Lang. Trong thời gian ở rể Nhã Lang không ngừng dò hỏi tin tức, nắm bắt bí mật quân sự của Triệu Việt Vương để báo lại cho Lý Phật Tử.
Từ thông tin nội ứng của con trai, Lý Phật Tử nắm được các sơ hở của Triệu Việt Vương. Cuối cùng vào ngày 15/10/517 mang quân đánh úp. Bị đánh bất ngờ, không có sự chuẩn bị nên Triệu Việt Vương hoảng loạn. Lúc này, ông được tướng quân Trương Hát hộ tống cưỡi ngựa thoát ra khỏi thành Thăng Biên chạy theo hướng Đông Nam.
Thế nhưng đi đến đâu Triệu Quang Phục cũng bị quân Lý Phật Tử đuổi theo. Tướng Trương Hát căm thù tên phản bội, kéo dây cung rất căng bắn mũi tên trúng giữa mặt tên Lý Nhã Lang là con trai của Lý Phật Tử, con rể của Triệu Việt Vương, ngã lăn xuống đất kết liễu đời tên phò mã gian manh, phản bội. Sau đó, tướng Trương Hát đi tìm không thấy Triệu Việt Vương.
Bị truy đuổi nhiều ngày liền, cuối cùng khi Triệu Việt Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha (sông Đáy), cùng đường, ông nhảy xuống biển tự vẫn.
Sau khi tiêu diệt được Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử lên ngôi, đóng đô ở Phong Châu. Vì cũng xưng là Lý Nam Đế nên đời sau gọi là thời kỳ này Hậu Lý Nam Đế để phân biệt với thời của Lý Bí.
Trong khi đó, sau khi thống nhất được Trung Quốc, vua Tuỳ đã gửi thư yêu cầu Lý Phật Tử sang chầu, nhưng ông thoái thác không đi. Nhân cơ hội đó, vua Tuỳ xuống chiếu sai Lưu Phương mang quân sang đánh nước ta.
Sau nhiều lần thất bại trên sa trường, Lý Phật Tử buộc phải đầu hàng nhà Tùy, bị bắt vể Trung Quốc và chết ở đó. Đất nước ta rơi vào cảnh bị phong kiến phương Bắc đô hộ.
Tấn bi kịch của Triệu Quang Phục đã để lại một bài học đắt giá cho hậu thế. Ông giống như An Dương Vương, vì quá tin vào kẻ thù, cuối cùng nước mất, nhà tan, thân bại danh liệt. Trong khi đó, Lý Phật Tử dù dùng đủ mọi cách để giành chiến thắng nhưng cuối cùng cũng trở thành con mồi cho kẻ xâm lược, đẩy đất nước vào cảnh bị kìm kẹp, đô hộ.
Triệu Quang Phục vì cả tin mà "thân bại danh liệt". Còn Lý Phật Tử vì dã tâm mà hại mình, hại người, khiến nước lầm than, bản thân trở thành "tội nhân thiên cổ".
Xem thêm: Sự trùng hợp kỳ lạ giữa 2 công chúa vừa đáng thương, vừa đáng trách trong sử Việt
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận