Chầu Bát Nàn là ai và tiệc Chầu Bát Nàn vào ngày nào?
Đại tướng Đông Nhung là một vị tướng tài ba, anh dũng. Sinh thời, bà giúp dân vượt qua 8 nạn nên được tôn là Chầu Bát.
Chầu Bát Nàn là ai?
Theo Wikipedia, Bát Nàn (17 - 43), có nơi gọi là Bát Nạn hoặc Bát Não, Chầu Tám Bát Nàn. Bà là một nữ tướng thời Hai Bà Trưng trong lịch sử Việt Nam. Bà là vị tướng có nhiều đóng góp cho cuộc khởi nghĩa.
Về tên gọi của nữ tướng này, theo dân gian: Bát Nàn tướng quân tên là Thục, tục gọi là Thục Vương, khởi nghĩa ở vùng Tiên La (nay là Thái Bình). Đến thời nhà Lê thì thần phả làng Tiên La (nay thuộc Thái Bình). Đến thời nhà Lê thì thần phả làng Tiên La được sửa chữa, tên bà được ghi chép là Vũ Thị Thục hay Vũ Thục Nương.
Theo tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam, Chầu Bát Nàn là một trong những vị Chầu Bà Tứ Phủ nổi tiếng linh thiêng, phù hộ độ trì, ban phước lành cho dân chúng.
Chầu Bát Nàn là vị Chầu Bà thứ tám trong Tứ Phủ Chầu Bà, trước Chầu Chính và ngay sau Chầu Bảy. Tương truyền, bà giúp dân vượt được 8 nạn nên được tôn là Chầu Bát. Ngoài ra, bà cũng có những tên gọi khác nhau Chầu Bát Thượng Ngàn, Chầu Tám Bát Nàn và Bát Nàn Đại Tướng Đông Nhung.
Sự tích Chầu Bát Nàn
Theo "Đạo Mẫu Việt Nam", Hào Phú xã Phượng Lâu là ông Vũ Công Chất quản cai 12 xã, lấy vợ là Bà Hoàng Thị Màu cùng làng, thương yêu và sống hòa thuận. Một lần đi lên đỉnh núi hái thuốc, ông thấy miếu cổ đã cũ, hỏi thăm sự tình mới biết đó là miếu thờ Sơn Tinh Công chúa, húy là Ngọc Hoa - con Vua Hùng.
Ông đến gặp trưởng làng, nhân dân trong vùng vận động mọi người cùng tu tạo và tạc tượng Sơn Tinh Công chúa để thở. Ông đem thuốc về cho dân làng và kể cho vợ nghe chuyện mình tu tạo miếu.
Đêm đó, bà Hoàng Thị Màu trong chiêm bao có tiếng người con gái nói muốn đến làm con tạ ơn đã trùng tu miếu. Lúc đấy, xuất hiện bóng người con gái mặc y áo cánh sen vào lòng Bà rồi biến mất.
Ngày 15 tháng 8 (ÂL) sinh ra một bé gái trắng trẻo, xinh đẹp đặt tên là Vũ Thị Thục. Thục sinh ra trắng trẻo, xinh xắn. Càng lớn càng xinh, thông minh, nhanh nhẹn hơn người. Bắn cung múa kiếm cực giỏi, học đâu nhớ đấy. Nàng kết duyên cùng với Phạm Danh Hương con của hào mục cai quản 13 trang ở Nam Chân bên kia sông Lô, quê ở Liệt Trang.
Thái thú Giao Châu Tô Định hám sắc muốn kết duyên với Thục Nương, nhưng nàng không chịu. Hắn đem quân giết cha và chồng nàng. Thù nhà nợ nước, thù cha thù chồng phải trả, Thục nương tập hợp quân tất cả các xã, rèn luyện binh võ phất cờ khởi nghĩa ở Tiên La.
Năm 40, khi khi dấy binh ở Tiên La thì được Hai Bà Trưng hiệu triệu, Thục nương còn băn khoăn vì binh đã mạnh, đánh đuổi giặc Hán bao lần chạy, chưa biết có nên hợp lực không. Vào đêm đó, nằm mơ thấy Tiên Nữ vâng lệnh Vua Cha Ngọc Hoàng xuống trao cho Bà lá cờ xan (cờ thần) và khuyên Bà nên theo Hai Bà Trưng phất cờ dẹp giặc. Thục nương đã làm theo ý trời, tiến về Mê Linh Tụ Nghĩa cùng với Hai Bà Trưng.
Lễ tế cờ ở Hát Môn, Nghĩa binh của Thục nương gươm đao lên đường dẹp giặc, đi đến đâu, công trạng và nghĩa binh Tiên La vang dội đến đó.
Đánh đuổi xong giặc Tô Định, đất nước được thái bình. Trưng Trắc lên ngôi vua, Thục nương được phong:
Thục nương đã có công giúp dân thoát khỏi tám nạn của giặc nên có danh là "Bát Nàn Đại Tương Quân" đọc chệch "Bát Nạn".
Nàng tâu trình Trưng vương cho về quê thăm mẹ, tế cha, tế chồng và xây dựng lại thôn quê. Cảm kích tầm lòng thành, Trưng vương chuẩn tấu cho Bà về quê cùng vàng bạc,...
Trở lại quê hương, cùng các bô lão bàn việc ra sức cải thiện Phượng Lâu, Thục Nương còn làm miếu cho chồng và cha, thiết lập cơ sở trong làng đầy đủ.
Về Tiên La, Thục nương ra sức cùng dân làng mở mang làng chợ, trồng trọt, chăn nuôi, chấn chỉnh lại binh ngũ, thôn quê trở nên yên bình. Bà quay về kinh đô bái yết Trưng Vương.
Trưng Vương giao cho Thục nương cùng với nữ tướng Lê Chân trấn giữ miền duyên hải, kéo dài từ Hải Phòng đến Thái Bình.
Năm 43, giặc Hán do Mã Viện kéo qua xâm chiếm nước ta với, Thục nương cùng với Hai Ba Trưng một lần nữa đứng lên đánh giặc. Trước sức mạnh của địch, quân binh phe ta yếu thế yếu, Bà dẫn quân lui về Tiên La.
Trận đánh ở Cẩm Khê, Hai Bà Trưng đã trầm mình tử tiết, Mã viện tiếp tục đem quân truy đuổi các binh tướng của Trưng Vương. Nghĩa Binh của Trưng Vương đánh giặc được 2 tháng cùng với thành lũy Tiên La vững chắc.
Một hôm, Thục nương đi tuần trở về thấy Tiên La thất thủ, rút gươm tuẫn tiết.
Tước hiệu truy phong của các đời vua sau này dành cho bà:
Đời vua Lê Thánh Tông sắc phong: Ý Đức Đoan Trang Trinh Thục Công Chúa.
Đời vua Minh Mạng sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Chi Thần.
Đời vua Khải Định sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Thượng Đẳng Thần.
Chầu Bát Nàn được thờ ở đâu?
Đền thờ Chầu Tám Bát Nàn có ở nhiều nơi, nhưng nổi tiếng nhất là Đền Tiên La thuộc thôn Đoan Hùng, Hưng Hà, Thái Bình. Đây là nơi nhân dân chịu ơn chầu bà và cũng là nơi di thể chầu bà trôi về, nên ở đây chầu còn được tôn xưng là Mẫu Tiên La.
Ở ngôi đền này vẫn còn lưu truyền câu chuyện huyền bí cho rằng, khi Chầu Bát đã ở trên ngàn, bà hóa phép đốn cây rừng và cho thả gỗ về bến sông gần đền Tiên La để nhân dân có vật liệu tu sửa lại đền. Nhờ đó mà ngôi đền trở nên khang trang, vững trãi hơn.
Ngoài ra, Chầu Bát Nàn cũng được thờ phụng ở đền Tân La (Hưng Yên). Đền này nằm tịa khu đất rộng với nhiều tán cây cổ thụ xum xuê bao bọc thuộc địa phận xã Đoàn Thượng, Bảo Khê, Hưng Yên. Tại đây còn có cung thờ Cô Bảy Tân La.
Vì Chầu Bà là người có công lớn, nhân dân khắp nơi tưởng nhớ và ghi ơn nền bà được nhiều nơi thờ phụng. Ngoài hai ngôi đề trên, thì còn rất nhiều nơi thờ Chầu Bát như Đền Tiên La ở Hải Phòng, đền Đồng Mỏ ở Lạng Sơn và một số đền khác ở Thái Bình, Vĩnh Phúc.
Tiệc Chầu Bát Nàn vào ngày nào?
Khánh tiệc của Chầu Bát Nàn là vào ngày 17/3 âm lịch hàng năm (là ngày chầu hóa). Năm 2023, tiệc Chầu Bát Nàn rơi vào Thứ Bảy, ngày 6/5 dương lịch.
Tuy nhiên, tại các đền thờ Chầu Bát Nàn cũng có tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công đức của ngài. Cụ thể:
- Đền Tiên La tổ chức lễ hội tưởng nhớ công đức của Chầu Tám Bát nàn vào ngày 10 - 20/3 âm lịch hàng năm. Trong đó, ngày 17 là ngày chính hội và cũng là ngày tiệc của Chầu Bát Nàn.
- Xưa kia đền Tân La tổ chức lễ hội lớn và kéo dài từ đầu tháng cho đến hết tháng 3 âm lịch. Ngày nay, đền vẫn giữ tục lệ cũ tổ chức lễ hội, tuy nhiên quy mô đã được gom lại, làm đơn giản hơn. Hội chỉ kéo dài từ ngày 15 - 17 tháng 3 âm lịch với phần lễ và hội đầy đủ.
Chầu Bát Nàn ngự đồng thế nào?
Chầu Bát Nàn là vị thánh chầu thường hay về ngự giá đồng, nhất là trong những dịp vui hoặc khi về đền chầu. Khi ngự giá đồng, Chầu Bà thường mặc áo màu vàng đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) màu vàng, có dải von hoặc vỉ lét thắt dải buộc, sau lưng dắt kiếm và cờ lệnh như khi ra trận. Chầu là võ tướng vì vậy sau lễ tấu hương và khai quang múa kiếm cờ như quan lớn.
Vào lễ đặc biệt tại các đền thờ Chầu Bà, người dân đến có thể cầu bình an, sức khỏe, may mắn, tài lộc. Khi dâng lễ thì nên chuẩn bị hoa quả, cơi trầu, cút rượu, xôi thịt, tập giấy tiền, thẻ hương, tớ trình.
Văn Chầu Bát Nàn
Dưới đây là những bản văn Chầu hay nhất thường được dùng hát thỉnh trong ngày tiệc và hầu giá Chầu Bát:
Bản văn Chầu Bát số 1
Nổi danh muôn thủa đấng hồng quần
Nữ tài hộ quốc cứu lê dân
Tận trung phò tángôi trung nữ
Phá ách gông cùm lũ xâm lăng
Đuổi tan hán tặc an bờ coi
Trung nữ Vua Bà mệnh đế quân
Thánh nữ thụ tòng ngôi đại tướng
Danh hiển Bán Nàn dạng thiên xuân
Hồn khí Việt muôn đời rạng rỡ
Tự ngàn xưa thiên cổ truyền ghi
Khuôn thiêng hun đúc diệu kỳ
Nổi danh tài tướng nữ nhi má hồng
Cảnh đô hộ non sông cơ cực
Ách bạo tàn Hán tặc Bắc phương
Mà đắng cay thảm thiết thê lương
Hán triều Tô Định bạo cường bất nhân
Bao nước mắt muôn dân đồ thán
Bấy mồ hôi trăm họ lầm than
Thù căm bè lũ nó tham tàn
Nỗi lòng căm giận thét vang tận trời
Cao xanh thấu lòng người tân khổ
Phái thiện thần cứu trợ kíp ngay
Tiên nàng tâu trước cung mây
Nguyện xin giáng hạ cứu rầy dương gian
Mây năm sắc hào quang rực rỡ
Vị tiên cung giáng thụ bào thai
Tuần trăng tháng tám chính ngôi
Khuôn thiêng diệu vận đúc bồi cho nên
Đất Phượng Lâu ấy miền vượng khí
Cửa Vũ gia hạ thế vừa hay
Thung huyên săn sóc đêm ngày
Dung tiên cốt thánh quý thay khác người
So nhan sắc hương trời cung Quảng
Vẻ thông minh tỏ rạng hùng anh
Giận loài Hán tặc hôi tanh
Thù nhà nợ nước sao đành để yên
Đâu luống chịu khổ hèn cơ cực
Chí anh hùng rạo rực khôn nguôi
Giặc Tô tội ác tày trời
Đoạt hoa ép liễu hại người hiếu nhân
Phạm công tử Nam Chân quận trưởng
Ứng duyên lành rồng phượng sánh đôi
Ai ngờ con tạo trêu ngươi
Phượng, long ly biệt đôi nơi phũ phàng
Căm giận loài sói lang Tô Định
Nỗi thù nhà nặng gánh giang san
Phụ thân đã dưới suối vàng
Phạm lang có thấu nỗi tràng này chăng
Nỗi nợ máu lòng hằng báo trả
Lưỡi gươm thiêng trí cả quyết tâm
Tiên La lập ấp chiêu quân
Nữ nhi tỏ rạng hồng quần ai đương
Trưng nữ Vương vẻ nhường khí vũ
Biết Vũ nương nữ chủ phất cờ
Sai quân mời hịch kíp giờ
Ba cây chụm lại lên gò núi cao
Hợp nghĩa binh anh hào các động
Vũ Nương ngài Đại tướng tiên phong
Ra quân sấm dậy uy hùng
Dẹp tan quân giặc, sắc phong Bát Nàn
Ba năm giữ giang san đất nước
Quân Hán càng ngang ngược bạo tàn
Sai quân Mã Viện kéo sang
Lệnh truyền binh tướng sẵn sàng xông pha
Quân kéo về ngã ba Đồng Mỏ
Giặc ngông cuồng cờ đỏ vây quanh
Tiên La phấp phới cờ thành
Nguyện vì nghĩa lớn nhiệt thành quyết tâm
Nguyện quyết tử đền ân xã tắc
Nợ thù nhà son sắc ai hay
Cao xanh có thấu lòng này
Sổ trời biên chép bút mây đã tường
Rừng hoa cỏ tiếc thương thánh nữ
Đất trời cùng tạc chữ hùng anh
Tháng ba mười bảy kỳ linh
Đúng ngày mãn hạn thiên đình chiếu sai
Thụ ơn đức lâu dài tế độ
Dân lập đền thờ tự khói hương
Truyền lưu sự tích tỏ tường
Thánh tiên giáng phúc thập phương ơn nhờ
Phúc lai hưởng thiên thu vạn cổ
Yên dân lành muôn thủa đội ân
Kính thành giãi tỏ chân tâm
Tấu xin bốn chữ : thiên xuân thọ trường
Bản văn Chầu Bát số 2
Ai về thăm tỉnh Thái Bình
Nhớ về Bái Yết động đình vua cha
Ai về thăm huyện Hưng Hà
Nhớ vào Bái Yết bát ngàn đại tướng quân
Ngôi đền thờ đại tướng đông nhung
Quê người trên Bạch Hạc ngự miền thượng lâu
Vào những năm trước đầu thế kỷ
Năm 43 khi trước công nguyên
Có người con gái ở miền Thượng Lâu trên Bạch Hạc
Chầu bà tự nhiên kéo về
Chầu nặng lòng son thu nhà nợ nước
Cùng Trương Vương cất bước tiến lên
Phất cờ vung kiếm mở đường
Ra tay quét sạch những phường gian tham
Bỗng cơn gió núi mưa ngàn chuyển
Ầm ầm binh mã kéo về Tiên La
Vào chùa lễ phật di đà
Sử kinh binh pháp mượn đà náu nương
Nơi cửa phật sớm tối đèn hương
Chí toan mưu lớn tìm đường cứu dân
Vào buổi sáng mùa xuân năm ấy
Năm Nhâm Dần 17 tháng 3
Nghĩa quân đứng chặt quanh bà
Đang nghe lời hịch chầu bà truyền ra khắp vùng
Quân Tô Địch nó ầm ầm kéo tới
Phát gươm đao phơi phới cờ bay
Bốn bề khép chặt vòng vây
Lòng sâu kế hiểm nó ra tay hại người
Nữ chầu bà quyết không sa tay giặc
Hô nghĩa quân quyết chiến xông ra
Kiếm cung trận mạc xông pha
Việt Nam thủa dưới quyền Đông – Hán
Giang sơn ta ảm đạm thê lương
Giận thay Tô Định bạo cường
Đem quân giày xéo quê hương cõi bờ
Thủa bấy giờ có nhà họ Vũ
Nảy chồi lan một nụ xinh tươi
Nhụy phong, trăng khuyết tuổi mười
Thơ văn xem cũng ít người khôn so
Lực cử đỉnh dành cho nữ kiệt
Đường kiếm hoa khoanh nguyệt rạch mây
Tuổi xuân vừa độ trăng đầy
Môi son má phượng, má hây tuyết hồng
Nét ngọc tring sánh cùng trăng nước
Tô Định kia muốn ước duyên hài
Từ thân quyết một liều hai
Lẽ đâu lại gả cho loài súc sinh
Tô Định nổi bất vình sấm sét
Sai chặt đầu Vũ Chất làm đôi
Máu hồng lòng trẻ sục sôi
Thét đòi nợ máu vung đôi kiếm thần
Máu thù ngập đôi chân nữ kiệt
Tấm áo xanh màu huyết phủ Giầy
Tay thần phá mấy vòng vây
Gót tiên mải miết trời mây tối dần
Băng tới bến thấy thuyền nan nhỏ
Đôi kiếm thần thuận gió chèo bơi
Lệ sầu gieo rải sông xuôi
Bản văn Chầu Bát số 3
Đất nước bốn nghìn năm lịch sử
Biết bao trang kiệt nữ anh hùng
Đôi vai nghĩa nước tình chồng
Phất cờ đuổi giặc chiến công lưu truyền.
Năm bốn ba kỉ nguyên thứ nhất
Đông Hán tràn sang cướp nước ta
Tội gây trời đất không tha
Sát phu cướp phụ bao nhà nát tan
Dân khắc khoải ngày đêm mong mỏi
Ai người lo đánh đuổi thù chung
Phượng Lâu đất ấy vua Hùng
Có ông Vũ Chất vốn dòng nho gia
Nghề thang thuốc gần xa độ nạn
Hoàng Thị Mầu kết bạn trăm năm
Quỳnh giao hoa nở một bông
Ông bà thỏa nỗi năm mong tháng chờ.
Tấm hình hài trẻ thơ đẹp đẽ
Gai hay trai cha mẹ sinh ra
Ông bà bàn lại tính qua
Đặt con gái quý tên là Thục Nương.
Vẻ trang nhã hiện lên khuôn mặt
Tóc mây xanh da ngọc môi hồng
Mày ngài mắt phượng lưng ong
Ánh hoa pha tuyết đẹp lòng mẹ cha.
Mười sáu tuổi say sưa nghiên bút
Trí thông minh học một biết hai
Kinh thư thơ phú văn bài
Thư văn bầu bạn bao người mến thương.
Mười tám tuổi làm thơ yêu nước
Vạch mặt phường xâm lược bất nhân
Khổ đau đói rách nợ nần
Hay đâu số phận thiên đình định cho.
Vì Đông Hán mưu mô xảo trá
Kéo quân sang cướp của giết người
Gây lên tội ác tầy trời
Thái thú Tô Định chính người chủ mưu.
Bắt dân mò ngọc trai đáy bể
Lên rừng tìm vật quý cống dâng
Ngà voi, tê giác, hươu nhung
Bóc rầm mưa nắng, thân quằn đòn roi.
Dòng thơ hay bao người đón đọc
Chỉ mong sao xóa sạch bất công
Chỉ mong xóa hết nợ nần
Chỉ mong sớm thoát khỏi vòng xâm lăng.
Phạm Hương chức Nam Chân quận trưởng
Lẽ thương dân sống dạ cơ hàn
Tuy rằng mũ áo xênh xang
Nhưng lòng thanh bạch chẳng làm điều nhơ.
Được Vũ Công ưng cho làm rể
Hẹn ngày lành làm lễ kết hôn
Tô Định sẵn có lòng tham
Ao tù khát nước rồng vàng tắm chung.
Đức Vũ Công không kìm uất hận
Chửi mắng tên Tô Định bất nhân
Tô Định lệnh chém đầu ông
Sai quân sửa chiếc kiệu rồng đón dâu.
Được tin báo lòng đau như xé
Thục nương nhờ gửi mẹ nơi xa
Ung dung bước tới kiệu hoa
Trả lời dõng dạc ta đây sẵn sàng.
Nhận lễ vật nhà quan mang đến
Các ngươi mau đứng lui ra
Chỉnh tề khăn áo bước ra
Kiếm vung miệng thét chầu chẳng tha kẻ thù.
Quân Tô Định vây thành đứng phục
Thục Nương ra tới khúc sông Hồng
Thấy thuyền câu nhỏ bỏ không
Kiếm thay chèo lướt theo dòng về xuôi.
Bảy ngày đêm đội trời đạp nước
Rẽ sậy lau tìm chốn nương than
Tiên La cảnh ấy tĩnh tâm
Nấp sau Tam Bảo dần dần thiếp đi.
Lòng lo nghĩ thù nhà nợ nước
Bao dân lành chẳng được yên thân
Tiên La chiêu dụ nghĩa quân
Tích lương luyện kiếm cùng dân dẹp thù.
Trưng nữ vương nữ trung anh tú
Biết thục nương nữ chủ phất cờ
Sai quân mời hịch bấy giờ
Ba cây chụm lại lên gò núi cao.
Hợp nghĩa binh ba đào bảy động
Thục nương thời đại tướng tiên phong
Ra quân sấm động uy hùng
Dẹp tan quân giặc sắc phong Bát Nàn.
Ba năm giữ giang san đất nước
Quân Hán thời quen thói bạo tàn
Sai quân Mã Viện kéo sang
Lệnh truyền binh mã sẵn sàng xông pha.
Quân kéo về ngã ba đồng mỏ
Giặc ngông cuồng cờ đỏ vây quanh
Lệnh truyền hiệu triệu khắp thành
Thù nhà nợ nước quên mình xông pha.
Đêm thanh vắng canh ba lạnh lẽo
Hạt mưa rơi nặng trĩu ngàn cân
Gươm thề kiếm tuốt lồng tay
Lâm râm khấn nguyện đất dày trời cao.
Có thấu phận tơ đào liễu yếu
Hận thù nhà há chịu khoanh tay
Phạm Hương chàng hỡi có hay
Chứng cho lòng thiếp giãi bày hôm nay.
Khấn xong chầu đốt xác quân thù
Thung dung nhẹ bước trời vừa rạng đông.
Quân Mã Viện ầm ầm kéo tới
Bủa quân vây phơi phới cờ bay
Hùm thiêng gặp nước không may
Lẽ đâu lại để vào tay bạo tàn.
Lấy kiếm bạc thân đào tự sát
Gốc thông kia ghi tạc sử xanh
Bát Nàn đại tướng nổi danh
Tháng ba mười bảy năm Dần về tiên.
Anh linh rực rỡ vạn niên
Dấu thiêng ghi để lưu truyền đời sau
Đệ tử con khấu đầu vọng bái
Tiến văn chầu ôn lại tích xưa
Bao năm dầu dãi nắng mưa
Công ơn muôn thửở ngàn đời không phai.
Xá
Đùng đùng tiếng trống Mê Linh
Phất cờ khởi nghĩa uy danh hàng đầu
Binh thư đọc suốt đêm thâu
Ngày ngày luyện tập dãi dầu ba quân
Gươm thiêng sáng tỏ trung thần
Cờ hồng ra trận lẫy lừng một phen
Quân Tô Định lạc phách kinh hồn
Giặc nhà Đông Hán không còn một tên
Nước non độc lập vẹn toàn
Trưng Vương xưng chiếu gia ban
Trẻ già trai gái không quên
Ba năm độc lập giang sơn thái hoà
Thuận thời thiên hạ xướng ca
Binh nhung lại nổi can qua tức thì
Đức Bát Nàn và mười vệ sĩ
Đến bờ sông Hồng quyết tử quyết sinh
Tháng ba mười bảy Nhâm Dần
Hồn thiêng đã thác về đền Tiên La.
Xem thêm: Mẫu Liễu Hạnh là ai và tiệc Mẫu Liễu Hạnh vào ngày nào?
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận