Nguyễn Huỳnh Đức - hổ tướng Sài Gòn nức danh trung nghĩa: Lấy chân làm gối cho vua ngủ
Nguyễn Huỳnh Đức là hổ tướng của truyền Nguyễn với nhiều chiến công vang đội trên sa trường và nổi tiếng về lòng trung nghĩa. Khi Nguyễn Huệ bắt, muốn giữ làm bề tôi vì mến tài đức, ông không chịu nên sau 3 năm nương náu ông trốn về với chúa Nguyễn.
Hổ tưởng Nguyễn Huỳnh Đức là ai?
Nguyễn Huỳnh Đức (1748 - 1819) là danh tướng và là công thần khai quốc của nhà Nguyễn. Ông là một trong số các võ quan cao cấp đầu triều Nguyễn, từng giữ chức Tổng trấn của cả Bắc Thành lẫn Gia Định Thành.
Theo Wiki, trước ông có tên là Huỳnh Tường Đức, sau nhờ lập nhiều công lao nên được ban quốc tính họ Nguyễn. Từ đó ông có họ kéo là Nguyễn Huỳnh. Ông sinh trưởng tại giồng Cái Én, làng Trường Khánh, châu Định Viễn, dinh Long Hồ (nay thuộc phường Khánh Hậu, thành phố Tân An, tỉnh Long An).
Vị hổ tướng này xuất thân trong gia đình quan võ. Ông nội là Huỳnh Châu, cha là Huỳnh Lương, đều theo phò chúa Nguyễn và đều được phong chức Cai đội.
Năm 1731, cha và ông nội theo Điều khiển Trương Phước Vĩnh tham gia đánh dẹp cuộc nổi loạn Sá Tốt. Sau khi dẹp yên, vua Chân Lạp hoảng sợ, xin đem hai vùng đất là Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long) dâng cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Để tiện việc coi giữ, vị chúa này cho lập châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ, bổ nhiệm quan lại rồi đưa thêm dân Việt đến khai hoang lập nghiệp. Từ đó, gia đình ông ở lại khai khẩn và lập nghiệp tại nơi sinh ra ông.
Sử chép, ông là người có dung mạo khôi ngô, khỏe mạnh hơn người, ai cũng coi ông là hổ tướng.
Hổ tướng được vua Quang Trung kính trọng
Được biết, Nguyễn Huỳnh Đức cùng với Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Trương, Đỗ Thành Nhơn, Trương Tấn Bửu được người đời suy tôn là "Ngũ hổ tướng Gia Định".
Ban đầu, ông là tướng của Đỗ Thành Nhơn, thủ lĩnh quân Đông Sơn ở Gia Định. Sau này, Đỗ Thành Nhơn bị hại, Nguyễn Huỳnh Đức vẫn được tin dùng. Sách "Đại Nam chính biên liệt truyện" chép rằng khi vua tôi nhà Nguyễn phải bỏ chạy vì bị quân Tây Sơn đánh cho thua tan tác ở Sài Gòn, Nguyễn Huỳnh Đức vẫn chạy theo cứu giá.
Vua muốn lội lên bờ để tránh nhưng Nguyễn Huỳnh Đức nghĩ rằng sông ấy có nhiều cá sấu nguy hiểm, cố xin Nguyễn Ánh bình tĩnh để xem hư thực thế nào. Sau nhìn kĩ mới biết, đó chỉ là đàn cò trắng đang đậu trên cây dọc bờ sông.
Vừa sợ bị truy kích, vừa mệt mỏi, giữa đêm vua gối đầu lên đùi Huỳnh Đức mà ngủ. Hổ tướng cứ thế xua muỗi suốt đêm, canh trừng để vua có giấc ngủ ngon. Gia Long sau đó khen Nguyễn Huỳnh Đức là người có lòng trung quân.
Đến năm 1783, Nguyễn Huỳnh Đức thua trận, bị quân Tây Sơn bắt cùng 5000 thuộc hạ. Quang Trung - Nguyễn Huệ thấy ông khỏe mạnh, muốn thu dùng nhưng ông một lòng với Nguyễn Ánh, luôn nuôi ý trốn về.
Thời gian lưu lại doanh trại của Nguyễn Huệ, do nhớ thương chủ cũ nên trong lòng ông thường phẫn uất. Một đêm mơ ngủ, Nguyễn Huỳnh Đức quát mắng Nguyễn Huệ rất to. Quân tướng giận, muốn đem giết nhưng vị anh hùng áo vải cho là lời trong giấc ngủ, không nỡ bắt tội.
Nguyễn Huệ còn cho nhiều châu ngọc, muốn tỏ sự hậu đãi để lôi kéo nhưng Huỳnh Đức vẫn không suy chuyển. Ông lập lời thề với Quang Trung rằng, chỉ giúp đánh họ Trịnh chứ không quay giáo đánh chúa Nguyễn. Vị anh hùng Tây Sơn vì thế càng mến tài trung nghĩa của ông.
Tấm gương sáng về lòng trung nghĩa
Ba năm sau, Nguyễn Huệ dẫn quân ra Bắc đánh họ Trịnh nên đưa Nguyễn Huỳnh Đức theo. Khi về, ông được để lại giữ đất Nghệ An cùng tướng trấn thủ Nguyễn Văn Duệ. Người này vốn là thuộc hạ của Nguyễn Nhạc nên không thích ở dưới quyền Nguyễn Huệ.
Huỳnh Đức nhân đó lập mưu bảo Duệ theo đường tắt trong rừng mà lẻn về Quy Nhơn với Nguyễn Nhạc. Duệ tin lời liền đem hơn 5.000 quân theo đường rừng về Nam. Khi đi, Duệ sai ông đi trước mở đường.
Được hơn 10 ngày, ông cho người đến tại ơn Duệ rồi đưa thuộc hạ sang hướng khác, tránh Duệ mang quân truy đuổi. Đi đường rừng núi hiểm trở, mất nhiều thời gian nên lương cạn, quân sĩ phải ăn lá cây. Sau cùng, ông đến được Xiêm La (Thái Lan), vua ở đây cũng muốn giữ lại làm tướng nhưng ông nhất quyết về Sài Gòn tìm chúa Nguyễn Ánh.
Vào năm 1799, ông được thăng chức Chưởng quản Hữu quân dinh, ra đánh lấy được Phan Rí. Ông cũng dẫn quân tham chiến trận Thị Nại, chiếm thành Quy Nhơn giúp Nguyễn Ánh xoay chuyển cục diện chiến trường. Sau khi chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh giao ông trấn giữ thành Quy Nhơn.
Khi Nguyễn Ánh đăng cơ, Nguyễn Huỳnh Đức được phong làm Quận công. Năm 1810, ông được làm Tổng trấn Bắc thành kiêm Khâm sai Chưởng tiền quân. Sáu năm sau, ông làm Tổng trấn Gia Định cùng với Hiệp Tổng trấn Trịnh Hoài Đức, cai quản toàn miền Nam.
Đến năm 1819, Nguyễn Huỳnh Đức mất khi đang tại chức, thọ 71 tuổi. Thi hài ông được an táng tại Long An. Ông được thờ ở miếu Trung hưng công thần tại Huế. Quần thể đền, mộ thờ vị Hổ tướng tại Long An được dòng họ giữ gìn tốt. Năm 1993, toàn thể khu di tích được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Hiện, tên ông được đặt cho nhiều đường tại các tỉnh miền Tây như Long An, Kiên Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long.
Trước 1985, Sài Gòn có đến hai con đường mang tên Nguyễn Huỳnh Đức nhưng đã đổi thành đường Trần Tuấn Khải (quận 5) và Huỳnh Văn Bánh (Phú Nhuận). Ngoài ra, trước năm 1976, quận 5 còn có phường Nguyễn Huỳnh Đức, ngày nay là địa bàn các phường 5 và 6.
(T/h Wiki, Zing, VnExpress)
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận