Chân dung 2 vị vua mang dòng máu hoàng thất nhà Lý nhưng không được công nhận là đế vương chính thống
Hoàng triều nhà Lý đã sinh ra những vị hoàng đế anh tài, làm rạng danh đất Việt. Thế nhưng, triều đại này cũng có 2 vị vua mang dòng máu hoàng thất nhưng không được công nhận là hoàng đế chính thống. Đó là những ai?
Nhà Lý (hay Hậu Lý - để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) tồn tại 216 năm. Trong thời đại này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một cách lâu dài đến hơn 200 năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm. Vào năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt, mở ra kỷ nguyên Đại Việt rực rỡ nhất lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, nhà Lý truyền đến đời vua Lý Cao Tông thì bắt đầu đi xuống, loạn lạc nổi lên khắp nơi. Nguyên nhân được sử cũ đưa ra là do vua ăn chơi vô độ, không lo đến chuyện triều chính nên cơ nghiệp cứ dần đi xuống.
Trong triều đại nhà Lý có hai vị vua không được công nhận là chính thống:
Hoàng tử Lý Thầm - "con rối" trong tay đám phản loạn
Suốt 30 năm ngồi trên ngai vàng nhưng Lý Cao Tông quan tâm đến chính sự chỉ ham vui, lại bắt xây dựng cung điện to khiến nhân dân lầm than, khổ cực. Vào mùa thu, tháng 8 năm Đinh Mão (1207), vua thấy giặc cướp nổi lên như ong vỡ tổ bèn hối lại lỗi xưa, nhân đó hạ chiếu: "Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trùng, không biết được cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời bọn tiểu nhân mà gây nên oán với kẻ dưới.
Dân đã oán thì trẫm còn biết dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi, cùng dân đổi mới. Ai có ruộng đất, sản nghiệp bị sung công sẽ được hoàn lại” (Đại Việt sử lược).
Tuy nhận ra sai lầm của mình nhưng đã quá muộn, vương triều nhà Lý khó lòng vực dậy được nữa. Bản thân Lý Cao Tông cũng không còn cách nào để cải biến tình hình. Ngược lại, ông còn phải đi chạy loạn.
Đến tháng 7 năm Kỷ Tỵ (1209), vì giết oan trung thần là Phạm Bỉnh Di nên bộ hạ của ông tức giận làm loạn, đánh phá kinh thành, sử gọi là "loạn Quách Bốc" khiến Lý Cao Tông phải bỏ thành mà lẩn trốn đế Quy Hóa Giang (nay là huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ và một phần của tỉnh Yên Bái); mấy tháng sau nhờ lực lượng của họ Trần vua mới trở về được kinh đô.
Và chính trong sự rối loạn này, một hoàng thân đã đưa hoàng tử Lý Thầm lên ngôi báu. Lý Thầm là con thứ của vua Cao Tông.
Lý Thầm (có sách chép là Lý Thẩm) sinh năm Nhâm Tuất (1202). Lý Cao Tông lấy làm mừng mới ban chiếu đổi niên hiệ thành Thiên Gia Bảo Hựu. Khi loạn Quách Bốc xảy ra, Lý Cao Tông chạy lên Quy Hóa Quang, Quách Bốc nhân sự này đã tôn hoàng tử Lý Thầm lên ngôi tháng 7 năm Kỷ Tị (1209) khi mới 7 tuổi, nhiều đại thần trong triều liền theo vua mới.
Sử chép như sau: "Bọn Quách Bốc xông vào, lấy chiếc chiếu của vua bó xác Bỉnh Di và lấy xe của vua chở xác Bỉnh Di, vượt qua cửa thành, rút ra bến Đông bộ đầu; rồi lại quay vào cung Vạn Diên, lập con thứ vua là Thầm lên làm hoàng đế. Bọn Đàm Dĩ Mông và Nguyễn Chính Lại đều nhận chức ngụy quan cả” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục).
Danh nghĩa là vua nhưng thực chất Lý Thầm chỉ là "con rối" của đám phản loạn. Không lâu sau khi chạy khỏi Thăng Long, Lý Cao Tông dựa vào sức của họ Trần dẹp loạn Quách Bốc.
Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn viết: “Anh em họ Trần họp hương binh để dẹp loạn, rước vua về kinh sư, khôi phục chính đạo. Trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn, xử tội theo thứ bậc khác nhau”.
Tuy nhiên, không thấy sử chép về số phận của Lý Thầm. Song có lẽ Lý Cao Tông biết người con nhỏ của mình bị ép làm vua trong tình thế hỗn loạn nên bỏ qua không xét tội. Về danh nghĩa, Lý Thầm ở ngôi khoảng 5 tháng.
Hậu vận của Lý Thầm sử sách tuyệt nhiên không nhắc đến. Các nguồn dã sử và thư tịch địa phương cho hay: Sau ông xuất gia đi tu. Ông tìm đến làng Thượng Phúc (tên Nôm là Kẻ Hạ) nằm bên bờ con sông Nhuệ, thấy đất đai trù phú, phong cảnh êm đềm bèn dựng am thờ Phật tu hành tại đây, rồi dần dần am trở thành chùa gọi là Bảo Tháp tự (nay thuộc thôn Thượng Phúc, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội).
Sau khi Lý Thầm viên tịch, dân làng đã an táng và dựng tháp thờ Ngài, cho rằng đã đắc đạo thành Bồ Tát, thành Phật nên chùa Bảo Tháp còn được gọi là chùa Bồ Tát. Đến nay chùa vẫn giữ đôi câu đối:
Hộ quốc, xuất gia, bát đại thiên hoàng quang Lý diệp,
Chân thân hóa Phật, thiên thu địa mạch dũng liên hoa.
Nghĩa là:
Giúp nước, tu hành dòng dõi tám đời nhà Lý,
Chân thân thành Phật, ngàn năm địa mạch đài sen.
Vì là người sáng lập ra chùa nên Lý Thầm được tôn làm vị sư tổ của chùa. Về thứ bậc, ông là em vua Lý Huệ Tông, là chú của Lý Chiêu Hoàng vì thế đôi câu đối ở cổng Tam Bảo đã nói lên điều này:
Quốc thúc quốc sư, tân giáo truyền khai thập bát tử,
Phật vương Phật tổ, linh thanh vĩnh điện trang hạ Thanh Oai.
Nghĩa là:
Chú của vua, sư của nước, mở nền Phật giáo công lao triều Lý;
Vương thành Phật, Phật thành Tổ, tiếng anh linh còn mãi ở Thanh Oai.
Lý Nguyên vương - vua trong thời loạn
Sử chép, tháng 10 năm Canh Ngọ (1210) Lý Cao Tông lâm bệnh mất, thọ 37 tuổi, ngôi vua được truyền cho con trưởng là Lý Sảm (tức Lý Huệ Tông). Thời gian trị vì của Lý Huệ Tông là 14 năm. Nhưng trong thời gian này xã hội rất rối ren. Vua không có tài nên triều Lý dần dần đi vào hồi kết.
Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn chép: "Đến đời Huệ Tông cái rường mối hư hỏng của thiên hạ đã quá lắm mà vua thì không phải người giỏi giang cứng cáp, bề tôi giúp nước thì nhu nhược hèn kém, muốn chữa mối hư hỏng lâu ngày thì làm thế nào được”.
Lúc bấy giờ, các thế lực cát cứ địa phương nổi dậy đánh chém lẫn nhau, danh nghĩa là theo lệnh triều đình dẹp giặc nhưng thật ra là bất tuân lệnh vua. Trong số các thế lực đó phải nhắc đến lực lượng họ Trần, họ Tô ở Lưu Gia (nay thuộc Hưng Hà, Thái Bình), Đoàn Thượng ở Hồng Châu (địa bàn chính nay thuộc Mỹ Hào, Hưng Yên), Nguyễn Nộn ở Tiên Du lộ Bắc Giang (nay thuộc Bắc Ninh)…
Sau loạn “loạn Quách Bốc”, họ Trần mà đứng đầu là Trần Tự Khánh được vua cho giữ chức vụ quan trọng trong triều nhà Lý. Nhân cơ hội này, Khánh xây dựng vây cánh mạnh cho mình.
Vua Lý Huệ Tông và Thái hậu Đàm thị rất lo lắng về thế lực của Khánh. Đến đầu năm Qúy Dậu (1213) Trần Tự Khánh đem quân về kinh xin đón xa giá, vua ngờ có chuyện phản nghịch bèn ban chiếu lệnh cho tướng sĩ ở các đạo, hẹn ngày phát binh đánh.
Sau khi ra quân đối trận, Huệ Tông thất thế nên chạy về rĩ Sơn thuộc Lạng Châu (nay là Lạng Sơn) rồi xiêu dạt đi Binh Hợp (nay là Phượng Nhãn, Bắc Giang) rồi về Nam Sách (nay thuộc huyện Nam Sách, Hải Dương)…
Tự Khánh chiếm được kinh thành Thăng Long liền sai người đem thư gặp hoàng đế hồi cung trở về nhưng Huệ Tông không nghe. Khánh bèn triệu các vương hầu, bá quan đến bàn việc, sai người đón Huệ Văn vương đến Hạc Kiều, lập làm vua mới.
Đại Việt sử lược cho biết, tháng 3 năm Giáp Tuất (tháng 4 năm 1214), Huệ Văn vương lên ngôi ở điện Đại An, đổi niên hiệu mới là Càn Ninh, xưng là Nguyên Vương.
Huệ Văn vương là tước hiệu, không rõ tên thật. Chỉ biết ông là con thứ của vua Lý Anh Tông, không rõ mẹ là ai, cũng không rõ ông là anh hay em của Lý Cao Tông.
Tiếng là làm vua nhưng Lý Nguyên Vương không có quyền lực, mọi việc đều do Tự Khánh thao túng.
Sau khi Lý Huệ Tông lần lượt dựa vào thế lực khác nhau nhưng vẫn không dẹp được loạn lạc, một số bị thất bại về tay Trần Tự Khánh vì thế đến đầu năm Bính Tý (1216), Lý Huệ Tông có ý lại quay về nương nhờ anh em họ Trần.
Tháng 4 cùng năm, Tự Khánh sai bộ tướng Vương Lê đem thủy quân đi đón Lý Huệ Tông. Sau đó bãi bỏ niên hiệu Càn Ninh, phế vua Nguyên Vương xuống làm Huệ Văn vương như cũ.
Lý Nguyên vương ngồi ngôi vàng được 2 năm (1214-1216), đến tháng 6 năm Tân Tỵ (1221), ông qua đời, không rõ thọ bao nhiêu tuổi. Trong sự kiện này, vua Huệ Tông đã bãi triều 5 ngày, ăn chay 3 ngày để tỏ ý thương tiếc.
Bốn năm sau khi Lý Nguyên Vương mất, họ Trần đoạt ngai vàng từ tay nhà Lý với “màn kịch” Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh vào ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (1225).
Xem thêm: Vì sao Lý Chiêu Hoàng không được thờ trong tôn miếu nhà Lý?
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận