Giai thoại về cậu bé chăn lợn học lỏm đỗ Trạng nguyên nổi danh đất Việt
Trong dân gian lưu truyền nhiều giai thoại về vị Trạng nguyên xuất thân nghèo khó, dù chỉ chăn lợn nhưng vẫn học lỏm thành tài Nguyễn Nghiêu Tư.
Nguyễn Nghiêu Tư có tên hiệu là Tùng Khê, tên tự Quân Trùng, là người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc (hiện nay thành xã Phù Lương, huyện Quế Võ, Bắc Ninh). Tục truyền rằng, ngày nhỏ ông sinh ra vào tháng Hợi, nên được đặt tên tục là Nguyễn Văn Trư, hoặc Nguyễn Nghiêu Trư. Ông vốn bụ bẫm, hay ăn chóng lớn, đầy tuổi đã nói sõi đủ điều. Đến năm 4 tuổi, chỉ cần nghe người lớn ngâm thơ vài lần là ông đã thuộc nằm lòng.
Cha mất sớm, Nghiêu Trư phải đi ở cho một nhà phú ông tại Đông Sơn, huyện Đông Ngàn (nay là làng Đông Sơn, xã Việt Đoàn, Thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) làm việc chăn lợn. Tuy vậy, ông rất ham học, thường đứng ngoài học lỏm bài giảng của thầy đồ Vũ Mộng Nguyên trong làng.
Thầy dạy hay gặp trò sáng dạ
Vũ Mộng Nguyên là người hay chữ, từng đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) vào khoa thi đầu tiên thời nhà Hồ năm 1400, cùng đỗ Thái học sinh khoa thi này có Nguyễn Trãi. Dù thi đỗ nhưng ông không chọn làm quan, bởi đó là thời điểm nhà Hồ mới cướp ngôi nhà Trần, không được lòng dân chúng. Thay vào đó, ông về quê nhà ở ẩn, làm thầy đồ dạy chữ.
Mỗi ngày, đám trẻ trong làng tới nhà thầy đồ học chữ, Nghiêu Trư cố nhiên cũng tới học lỏm. Dù chỉ đứng bên ngoài, nhưng cậu đã nuốt từng lời giảng của thầy, hiểu và ghi nhớ nằm lòng. Nhờ tư chất sáng dạ, sau khi nghe thầy giảng thì Văn Trư lại càng tinh thông kinh sử.
Một lần nọ, thầy đồ Mộng Nguyên ra một bài bài khó, nhưng không học trò nào trong lớp giải được. Nghiêu Trư đứng ngoài thấy vậy thì cố mách các bạn, thầy đồ liền gọi Nghiêu Trư vào ứng đáp. Cậu bé chăn lợn chỉ học lỏm ấy trả lời vô cùng trôi chảy, khiến Mộng Nguyên vô cùng ngạc nhiên. Thầy liền hỏi những câu khác khó dần hơn, nào ngờ Văn Trư đều ứng đối lưu loát.
Thấy thế, Vũ Mộng Nguyên rất vui, biết đây là trò giỏi, liền xin phú ông cho cậu bé chăn lợn kia được ở lại nhà mình. Thầy ngày đêm kèm cặp trò học hành, nhờ đó mà tài học của Văn Trư ngày một nâng cao.
Thầy đi làm quan, trò đỗ Trạng nguyên
Năm 1427, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, khoảng 10 vạn đại quân nhà Minh trong thành đầu hàng xin tha chết. 1 năm sau, Lê Lợi lên ngôi vua, cho vời nhiều người tài về làm quan, xây dựng đất nước, trong đó có Vũ Mộng Nguyên. Ông được phong làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, tước Thái Trung đại phu, sau thăng Tế tửu.
Sau này đến kỳ thi, Văn Trư tham gia và thi đỗ kỳ thi Hương, thi Hội, sau đó lọt vào thi Đình. Năm 1448 dưới thời vua Lê Nhân Tông, vua cho mở kỳ thi Đình tại sân điện, đích thân đứng ra đề và đọc quyển. Thấy Nguyễn Văn Trư tài năng xuất chúng, vua đã chấm ông Đỗ Trạng Nguyên, đổi tên thành Nguyễn Nghiêu Tư. Sau khi thi đỗ, ông được bổ làm quan, sau ày thăng tiến lên chức An phủ sứ, Hàn lâm trực học sĩ.
Còn có giai thoại lưu truyền rằng, trước hôm thi đinh vua Lê Nhân Tông nằm mơ một chuyện rất lạ, thấy lợn thi đỗ Trạng Nguyên. Đến khi xem danh sách những người đỗ được công bố, vua thấy tên Nguyễn Nghiêu Tư đứng đều liền cho tuyên triệu vào hỏi chuyện. Khi đấy mới biết rằng ông sinh tháng Hợi, hồi nhỏ tên là Trư (Lợn). Cũng từ đó, dân gian có lưu truyền câu ca: "Long đầu lợn Nguyễn Nghiêu Tư" và gọi ông là Trạng Lợn.
Nghiêu Tư muốn trở về quê để bái tổ đường, nhưng lúc này cha mẹ đã mất, nhà cửa cũng không có. Vua mới cho xây nghè để họ hàng, dân làng đến đón tân Trạng Nguyên. Đến ngày vinh quy bái tổ, dân làng đến đón Trạng rất đông đúc, nhiều người gọi ông là Trạng Lợn để ôn lại những năm tháng chăn lợn nghèo khó của ông.
Thăng quan tiến chức, đi sứ nhà Minh
Tháng 10/1459, anh trai vua là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân cùng các thủ họ đột nhập cung cấm, giết vua Lê Nhân Tông để cướp ngôi. Sau khi khống chế tình hình, Lê Nghi Dân lên ngôi hoàng đế, tên hiệu là Thiên Hưng. Thấy Nguyễn Nghiêu Tư thông minh lại nhanh nhạy, Lê Nghi Dân phong ông làm Chánh sứ dẫn đầu đoàn sứ bộ sang nhà Minh.
Tương truyền rằng, khi đoàn sứ tới ải Nam Quan thì viên quan coi ải không mở cửa, chỉ treo một chữ thập (+) ở ngoài. Họ nói rằng chữ thập này có nghĩa là tung hoành vũ trụ, sau đó thách sứ nước nam đối được mới chịu mở cửa. Lúc này, Nguyễn Nghiêu Tư sai người đặt vòng tròn vào chữ thập, rồi nói đó là vòng tròn bao quát cả càn khôn. Bấy giờ liền được quân Minh mở cửa ải.
Khi đoàn sứ bộ đến Yên Kinh, vua Minh lại muốn ngầm thử tài nên đã cho trang hoàng cung quán lịch sự, đề hai chữ "Kính Thiên" treo ở giữa. Chưa hết, vua lại cho bày đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh trang hoàng nghi vệ sang trọng, tựa chỗ giường ngự của thiên tử để xem trạng có dám ngồi đó không rồi mời Nghiêu Tư và phó sứ đến.
Khi ấy, Nghiêu tư liền bảo phó sứ cùng ngồi lên, một quan viên liền tới nói rằng ông đã ngồi lên nơi có hai chữ "Kính Thiên". Vốn dĩ chữ thiên (天) là do chữ nhân (人) và chữ nhị (二) ghép thành, Nghiêu Tư liền đáp lại rằng:
"Dám thưa, ngài lấy tội gì mà cho sứ thần là ngạo? Tôi thấy biển đề ba chữ “kính nhị nhân”, thực hẳn là ý bản quốc muốn đem cái ngôi này mà hậu đãi sứ thần xa lại. Ngài dạy thế chúng tôi quyết không chịu. Vả nghe cổ nhân có nói: Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực. Tôi nghe thánh triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà người phương xa tới lại đem cái bụng trí truật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng, dẫu có lòng thực hướng mộ, cũng sinh nghi mà không lại nữa".
Sau khi đi sứ phương Bắc trở về, ông được vua Lê Nghi Dân phong lên chức Lại bộ Thượng thư, chưởng lục bộ. Sau khi Nghi Dân bị lật đổ, Lê Thánh Tông lên ngôi, sử không còn ghi chép thêm gì chức vụ của Nguyễn Nghiêu Tư. Chỉ biết sau này khi về nghỉ hưu, ông được ân sủng gia phong là “Thượng quốc công trí sĩ” và được ban lộc điền ở quê nhà, vợ ông được phong làm Nhất phẩm phu nhân.
Thực hư vụ chuyện xấu chốn khuê phòng?
Sau này Đại Việt sử ký toàn thư có chép rằng: "Nghiêu Tư người huyện Vũ Ninh; Thiết Trường người huyện An Định: Thiêm Uy người huyện Tứ Kỳ. Nghiêu Tư từng thông dâm với mẹ vợ, bấy giờ có kẻ đề vào chuồng lợn là "Buồng trạng nguyên", lại có người hát ngoài đường cái rằng: "Trạng nguyên trư, Nguyễn Nghiêu Tư" là chế giễu hành vi xấu đó". Thế nhưng, điều này đã để lại nhiều nghi vấn.
Được biết, Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử lớn được biên soạn vào thời Lê sơ, ban đầu tên Sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên thực hiện trên cơ sở bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và bộ Sử ký tục biên của Phan Phu Tiên. Tới thời Mạc bộ sử này tiếp tục được sử quan chỉnh sửa và ghi chép thêm, đến đời Lê Trung Hưng lại được vua Lê, chúa Trịnh sai người khảo đính, chỉnh lý, bổ sung. Có thể nói, đây là tác phẩm lịch sử do nhiều người viết ở các thời kỳ khác nhau, có thể sẽ xuất hiện ghi chép nhầm lẫn, trùng lặp.
Có người chỉ ra bằng chứng là, dưới thời Lê thánh Tông, vua cho dựng bia đá khắc tôn vinh người đỗ đạt, nếu ai mà có lỗi lầm sẽ bị phê phán. Trong khi đó, chiếu trên văn bia Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Thìn (1448), dựng năm Giáp Thìn (1484) niên hiệu Hồng Đức thứ 15 được Đông các đại học sĩ Đỗ Nhuận biên soạn thì không có hề nhắc tới vết nhơ nói trên.
Trên bia khắc rằng: "Mùa thu, ngày 23 tháng 8 Hoàng thượng ngự điện Tập Hiền, đích thân ra đề văn sách… Lấy những bài thi có văn phong khí cốt đáng khen, chọn bọn Nguyễn Nghiêu Tư trở xuống, ban cho đỗ Tiến sĩ cập đệ và xuất thân có thứ bậc khác nhau. Mọi nghi thức ban cấp áo mũ, yến tiệc đều tuân theo lệ cũ".
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận