Những điều thú vị về vị vua may mắn nhất triều Hậu Lê
Mặc dù không có nhiều công tích như các vị đế vương khác song cuộc đời của vua Lê Hiển Tông cũng có rất nhiều điều thú vị mà hậu thế ít người biết.
Mặc dù không có nhiều công tích như các vị đế vương khác song cuộc đời của vua Lê Hiển Tông cũng có rất nhiều điều thú vị mà hậu thế ít người biết. Vua Lê Hiển Tông (20/5/1717 - 10/8/1786) tên húy là Lê Duy Diêu. Ông là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng cũng như là thứ 26 của nhà Hậu Lê. Ông ở ngôi từ tháng 5/1740, sau khi Trịnh Doanh ép vua Lê Ý Tông nhường ngôi cho ông, đến ngày 17/7/1786.
Vua Lê Hiển Tông được sử sách mô tả là người mắt phượng, râu rồng. Khi còn làm Thái tử, ông đã chịu hoàn cảnh nguy hiểm, nếm trải nhiều gian khổ. Lên ngôi báu, ông trị vì lúc nước nhà có nhiều loạn lạc nhưng về sau xã hội trở lại yên ổn, dân an cư. Người đời lúc bấy giờ cũng ca ngợi là đời thái bình.
Đánh giá về vua Lê Hiển Tông, các nhà sử học đời sau cho rằng: Ông là vị vua nhu nhược nhưng may mắn. Hiển Tông là vị vua Lê điển hình thời trung hưng, nhẫn nhục chịu đựng, "khoanh tay rủ áo" để được yên vị. Tấm gương bị phế truất và bị sát hại của các vua trước khiến Hiển Tông thu mình, không còn ý định phản kháng.
Dẫu không có nhiều công tích nhưng cuộc đời của Lê Hiển Tông cũng có khá nhiều điều thú vị. Cụ thể:
1. Vị vua lên ngôi may mắn nhất
Lý Hiển Tông là vị vua lên ngôi một cách may mắn nhất. Khi còn là Hoàng tử, vì có người chú là Lê Duy Mật nổi binh đánh lại họ Trịnh nhằm khôi phục quyền lực cho vua Lê, do đó, ông bị Trịnh Giang nghi ngờ đem giam ở nhà viên quan nội thị Hồng quận công.
Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh lên ngôi chúa mới chuyển hoàng tử đến giam ở nhà cậu là Vũ Tất Thận. Đêm trước đó, Vũ Tất Thận "mơ thấy thiên tử tới nhà, cờ quạt phấp phới, nhã nhạc vang lừng, rõ ra cảnh tượng của đời thái bình" (Hoàng Lê nhất thống chí).
Sớm hôm sau thấy quân lính giải hoàng tử đến nhà, ông ta kinh ngạc cho là ứng vào mộng của mình bèn kể lại với chúa. Trịnh Doanh thấy vậy cho là người có phúc lớn bèn đón về tôn làm vua, đặt niên hiệu là Cảnh Hưng.
2. Vị vua thọ nhất triều Hậu Lê
Lê Hiển Tông sinh tháng 4 năm Đinh Dậu (1717), mất tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), thọ 69 tuổi. Ông là vị vua thọ nhất triều Hậu Lê.
3. Vị vua ở ngôi lâu nhất triều Hậu Lê
Lê Hiển Tông là một trong những vị vua ở ngôi lâu nhất và là người làm vua lâu nhất triều Hậu Lê. Ông lên ngôi tháng 5 năm Canh Thân (1740) và mất năm Bính Ngọ (1786), làm vua 46 năm.
4. Vị vua phát hành nhiều loại tiền nhất
Lê Hiển Tông là vị vua cho đúc và phát hành nhiều loại tiền nhất. Ông đã cho đúc 16 loại tiền khác nhau mang niên hiệu của mình. Đó là: 1. Cảnh Hưng Thông Bảo, 2. Cảnh Hưng Trung Bảo, 3. Cảnh Hưng Chí Bảo, 4. Cảnh Hưng Vĩnh Bảo, 5. Cảnh Hưng Thái Bảo, 6. Cảnh Hưng Cự Bảo, 7. Cảnh Hưng Trọng Bảo, 8. Cảnh Hưng Tuyền Bảo, 9. Cảnh Hưng Thuận Bảo, 10. Cảnh Hưng Chính Bảo, 11. Cảnh Hưng Nội Bảo, 12. Cảnh Hưng Dụng Bảo, 13. Cảnh Hưng Lai Bảo, 14. Cảnh Hưng Thận Bảo, 15. Cảnh Hưng Ðại Bảo, 16. Cảnh Hưng Ðại Tiền.
5. Vị vua có nhiều con rể làm vua nhất
Lê Hiển Tông là vị vua có nhiều con rể làm vua nhất. Ông có nhiều con gái, trong đó, công chúa Ngọc Hân gả cho Nguyễn Huệ (vua Quang Trung 1788 - 1792), công chúa út là NGọc Bình gả cho Quang Toản (vua Cảnh Thịnh 1793 - 1802).
Năm Nhâm Tuất (1802) sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, đặt niên hiệu Gia Long (1802 - 1819). Khi chiếm Phú Xuân đã rung động trước sắc đẹp của Ngọc Bình nên lấy làn phi. Như vậy, vua Lê Hiển Tông có 3 người con rể là hoàng đế. Trong số đó, thú vị là có hai người là cha con: Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Toản!
6. Vị vua chỉ sử dụng 1 niên hiệu
Lê Hiển Tông là vị vua có niên hiệu được sử dụng lâu nhất, trong 46 năm làm vua ông chỉ đặt 1 niên hiệu là Cảnh Hưng. Đây là niên hiệu sử dụng lâu nhất và điều đặc biệt nó còn được dùng cả một thời gian dài sau khi vua đã mất.
Khi các "tập đoàn phong kiến" tranh giành lẫn nhau. Tại vùng kiểm soát của chúa Nguyễn niên hiệu Cảnh Hưng vẫn được sử dụng trong các văn bản quản lý, chỉ đến khi Nguyễn Phúc Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn thì niên hiệu này mới không được dùng nữa.
Theo Hoàng Lê nhất thống trí: Tháng 5, mùa hè năm ấy (tức năm 1802) chúa Nguyễn hạ chiếu đổi niên hiệu Cảnh Hưng, tức là từ năm Bính Ngọ (1786) trở về sau chúa Nguyễn vẫn dùng niên hiệu cũ của nhà Lê. Năm Nhâm Tuất (1802) này, lúc đầu vẫn gọi là năm Cảnh Hưng, đến bây giờ mới đổi ra niên hiệu mới. Như vậy niên hiệu Cảnh Hưng được sử dụng tổng cộng trong 62 năm.
7. Vị vua mở khoa thi võ
Ngoài các khoa thi Nho học, triều Hậu Lê còn mở khoa thi võ học với hai cấp Sơ cử và Bác cử. Bên cạnh hình thức tuyển chọn nhân tài võ thuật đó, thời Lê Hiển Tông còn bổ sung thêm một hình thức là đề cử được quy định lần đầu tiên vào năm Qúy Hợi (1743).
Theo đó, những năm không có khoa thi võ thì các quan võ từ cấp tam phẩm trở lên đều phải đề cử người có tài, trí, mưu mô, khỏe mạnh, giỏi võ và quả cảm. Năm Canh Tý (1780) đời Lê Hiển Tông, lần đầu tiên việc thi võ được quy định chặt chẽ, kỹ càng hơn trước. Phép thi được chia làm 4 kỳ: kỳ 1 thi giương cung, múa đao; kỳ 2 thi bắn cung, bắn súng; kỳ 3 thi phi ngựa bắn cung, đấu siêu đao, lăn khiêng, múa gươm, đâm giáo…; kỳ 4 thi văn sách.
Điều đặc biệt là bắt đầu từ đây lệ thi còn chú ý đến xét duyệt khí sắc, đó là tướng mạo, tiếng nói, sức chịu đựng sao cho thể hiện được sự hùng dũng, can trường.
8. Vị vua giỏi âm nhạc, có nhiều tài lẻ
Lê Hiển Tông là 1 trong số ít các vị vua giỏi âm nhạc. Ngoài ra, ông còn có nhiều tài lẻ khác. Sách Hoàng Lê nhất thống chí chép: Nhà vua giỏi về các kỹ nghệ lặt vặt. Bao nhiêu cung điệu, nhạc phủ, nhà vua đều chế ra bài mới, âm thanh cực kỳ du dương, trong sáng.
9. Vị vua mở nhiều khoa thi nhất trong lịch sử
Năm Canh Ngọ (1750) đời Lê Hiển Tông, lần đầu tiên trong lịch sử khoa cử Nho học ở nước ta, các sĩ tử phải nộp lệ phí thi mới được tham dự thi Hương, khoản đó gọi là tiền thông kinh.
Ông là vị vua cho mở nhiều khoa thi nhất trong lịch sử; thời gian tại vị, ông mở 16 khoa thi, lấy đỗ 131 Tiến sĩ. Lê Hiển Tông là vị vua lấy bảng Tam khôi ít nhất.
Suốt 42 năm, từ khoa thi đầu tiên của triều đại ông tổ chức năm Quý Hợi (1743) cho đến khoa thi cuối cùng tổ chức năm Ất Tỵ (1785) chỉ lấy đỗ một Bảng nhãn là Lê Quý Đôn và hai Thám hoa là Phan Kính, Nguyễn Huy Oánh; không lấy ai đỗ Trạng nguyên.
Ông cũng là vị vua mở khoa thi lấy đỗ ít người nhất, đó là khoa thi năm Tân Sửu (1781), chỉ lấy hai người đỗ Tiến sĩ là Nguyễn Cầu và Nguyễn Tân.
10. Vị vua ban hành luật tố tụng đầu tiên của nước ta
Năm Đinh Dậu (1777) vua Lê Hiển Tông cho ban hành bộ Quốc triều điều luật; bộ luật này được xây dựng trên nội dung cơ bản của bộ Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) nhưng có bổ sung, sửa chữa cho phù hợp với tình hình mới. Quốc triều điều luật là thành tựu lập pháp nổi bật nhất của thời Lê Trung Hưng (1533-1788) và cũng là bộ luật lớn nhất của thế kỷ XVIII.
Lê Hiển Tông cũng là vị vua cho ban hành bộ luật tố tụng đầu tiên của nước ta. Trước đó các điều khoản tố tụng chưa được phân định riêng mà vẫn nằm chung trong nội dung của các bộ luật. Đến năm Đinh Dậu (1777) bộ Quốc triều khám tụng điều lệ được ban hành, nội dung là những điều lệ về kiện tụng, quy định thẩm quyền các cấp xét xử, thời hạn xét xử, trình tự bắt người, điều tra, khám xét…
Xem thêm: Vị vua nghiêm minh bậc nhất triều Nguyễn và nghi án giết chị dâu chấn động lịch sử
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận