Nốt ruồi - điềm báo mệnh thiên tử của các vị vua Việt
Lê Thái Tổ có 7 nốt ruồi ở bả vai; Lê Thái Tông có 7 nốt ruồi tụ sau gáy; Trần Nhân Tông có nốt ruồi đen ở vai bên tả... đó đều là "điềm báo ngôi thiên tử" của các vị vua Việt.
7 nốt ruồi ở bả vai của vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi)
Lê Thái Tổ (Lê Lợi) được coi là vị vua huyền thoại của Đại Việt với tài năng quân sự, khả năng cai trị và lòng nhân ái đối với nhân dân. Phan Bội Châu coi ông là hình ảnh chói lọi của vị vua Trung hưng thứ 2 sau Ngô Quyền. Trong Chiến tranh Việt Nam (1945-1975) để đề ra chiến lược đánh Pháp và Mỹ, lãnh tụ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Trường Chinh viết cuốn sách Kháng chiến nhất định thắng lợi đã lấy cuộc kháng chiến 10 năm của Lê Lợi làm ví dụ cho việc kháng chiến trường kỳ.
Về lý lịch xuất thân của Lê Thái Tổ, sách Đại Việt thông sử có chép: "Vua sinh giờ Tý (tức từ khoảng 23h đến 1h sáng) ngày mùng 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385), niên hiệu Xương Phù thứ 9 nhà Trần, tại làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương.
Nguyên trước, xứ Du Sơn, thôn Như Áng Hậu thuộc làng này (Chủ Sơn), có một cây quế, dưới cây quế này có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai.
Từ khi Vua ra đời thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho là một sự lạ. Ngày Vua ra đời thì trong nhà có hào quang đô chiếu sáng rực và mùi thơm ngào ngạt khắp làng.
Khi lớn lên thì thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên, bả vai bên trái có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ, tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường".
Ông sinh ra trong gia đình "đời đời làm quân trưởng 1 phương". Khi quân Minh mang 80 vạn quân sang xâm lược Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào cảnh thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước tình cảnh đó, Lê Lợi đã nung nấu một quyết định đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Đầu năm 1416, ở núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, ông cùng 18 người bạn thân, đông tâm cứu nước, làm lễ ăn thề đánh giặc khỏi bờ cõi quê hương. Đó là hội thề Lũng Nhai.
Đến năm 1418, ông xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc. Ông là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa.
Năm 1428, ông xưng đế ở Đông Kinh, mở đầu triều Lê sơ, triều đại lâu dài nhất lịch sử phong kiến Việt Nam. Trong Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Mặc dù ở ngôi ngắn ngủi được có 6 năm nhưng những việc làm của ông vua này có ý nghĩa đặt nền móng vững chắc cho cả một triều đại và nên độc lập phồn vinh của quốc gia Đại Việt. Việc làm đầu tiên của Lê Thái Tổ là bàn định luật lệnh. Và nhờ cố gắng đó, hai năm sau (1430), Lê Thái Tổ đă cho ban hành những điều luật đầu tiên của triều đại mình".
7 nốt ruồi tụ sau gáy của Lý Thái Tông
Lý Thái Tông là hoàng đế thứ 2 của triều đại nhà Lý, cai trị trong 26 năm (1028–1054). Ông được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi, thời đại của ông, con ông là Lý Thánh Tông, cháu ông là Lý Nhân Tông được xem là thời thịnh vượng của nhà Lý. Lịch sử mô tả ông uy dũng hơn người, bách chiến bách thắng, trải qua loạn ba vương mà lên ngôi với nhiều công danh rạng rỡ.
Nói về điềm báo chân mệnh thiên tử của ông, sử sách có ghi: Lý Thái Tông tên húy là Phật Mã, sinh năm Canh Tý (1000) ở chùa Duyên Ninh thuộc cố đô Hoa Lư. Ông là con trai trưởng của Vua Lý Thái Tổ và bà Lê Thị Phất Ngân, con gái Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) và Dương Vân Nga.
Tương truyền, ngay từ thuở lọt lòng, Lý Phật Mã đã có những dấu hiệu lạ lùng. Ông có tướng lạ, sau gáy có đến 7 nốt ruồi tụ lại như chòm sao thất tinh (sao Bắc Đẩu).
Khi bé, lúc chơi đùa cùng bọn trẻ trong cung, ông thường bắt chúng dàn hàng tả hữu trước sau để làm quân hầu hộ tống mình. Ông cho một vị đạo sĩ cái áo. Đạo sĩ treo cái áo trong quán, nửa đêm thế rồng vàng hiện ra, khiến người duy tâm coi đây là lời "sấm truyền" cho một đế vương.
Năm 13 tuổi, Lý Phật Mã đã được lập Đông cung Thái tử, rồi phong làm Khai Thiện Vương. Đồng thời nhiều lần được cử làm tướng cầm quân đi dẹp loạn và lập được nhiều công trạng. Vì thế, triều thần cũng như dân chúng rất tôn kính ông.
Năm 1208, Lý Phật Mã lên ngôi. Đại Việt Sử ký toàn thư nhận xét về Lý Thái Tông: "Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông".
Nốt ruồi đen mang mệnh gánh vác giang sơn của Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông (Trần Khâm) là vị hoàng đến thứ 3 của nhà Trần. Ông trị vì từ 8/11/1278 đến ngày 16/4/1293, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời.
Sử Việt đánh giá ông là vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XII cũng như bảo vệ nền độc lập và mở rộng lãnh thổ đất nước. Ông cũng là 1 vụ thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Nói về mệnh thiên tử của ông, sử sách chép: Trần Nhân Tông sinh ngày 11/11 năm Mậu Ngọ (1258). Ông là con trưởng của vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu. Khi mới sinh ra, toàn thân màu da như vàng ròng - sáng chói. Vua cha đặt tên là Phật Kim. Sách Thánh Đăng ngữ lục chép: "Đến khi vua ra đời, màu da như vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật...”.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Được tinh anh của Thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng ròng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng... Vai bên tả có một nốt ruồi đen, các nhà tướng số cho rằng: ngày sau sẽ gánh vác việc lớn".
Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).
Các sử gia thời Hậu Lê đã viết về Trần Nhân Tông: "Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân".
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận