Vì sao Việt Nam phải chịu nhiều cuộc chiến tranh?
Bài học xương máu sau mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam chính là tinh thần đoàn kết, nội lực quốc gia. Khi đã đảm bảo được các yếu tố này thì không kẻ thù nào có thể xâm phạm được dù chỉ là 1 tấc đất, ngọn cỏ của Việt Nam.
Thời niên thiếu khi cắp sách đến trường, tất cả chúng ta đều nằm lòng một mệnh đề: Trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã chiến thắng rất nhiều cuộc chiến tranh, chủ yếu là từ phương Bắc. Lớn lên, một mặt chúng ta tiếp tục tự hào với mệnh đề lịch sử quen thuộc và đầy tính truyền thống này nhưng mặt khác, trong một khoảnh khắc nào đó, có thể chúng ta sẽ đặt ra câu hỏi để truy tìm một khía cạnh khác của vấn đề: Vì sao Việt Nam xinh đẹp của chúng ta lại chịu nhiều cuộc chiến tranh đến vậy?
Tác giả Phan Mỹ Chí của Báo Công an nhân dân Online luận giải, thời Xuân Thu - Chiến Quốc xa xưa người Trung Hoa đã tự chia thiên hạ thành 5 phương. Trong đó, Trung Hoa là trung tâm, ở chính giữa và 4 phương còn lại lần lượt là: Bắc địch - Tây nhung - Đông di - Nam man.
Trong chiến lược này, họ coi dân tộc Mông Cổ ở phía Bắc là đối thủ thiện chiến, nên thực hiện một giải pháp lịch sử là phòng ngự và chống đỡ. Ở phía Tây là những dân tộc hoang dã nên có một chính sách đặc biệt để "đối ngoại". Ở phía Đông là những dân tộc mà họ muốn áp đặt ảnh hưởng của mình, cả về chính trị và văn hóa.
Và đặc biệt, các dân tộc ở phía Nam sông Dương Tử, họ con là "man di" nên tự cho mình cái quyền đem quân xuống khai hóa. Như vậy có nghĩa, tiến về phía Nam để thực hiện cái gọi là "khai hóa văn minh" (nhưng sau đó là âm mưu xâm lược) trở thành chiến lược lớn, xuyên suốt các triều đại phong kiến phương Bắc. Và có thể coi đây là lý do khách quan khiến dân tộc Việt Nam ta phải chịu nhiều cuộc chiến tranh đổ về từ phương Bắc.
Nhưng thực tế cho thấy, không phải lúc nào giặc phương Bắc cũng có thể dễ dàng thực hiện các chiến lược xuyên suốt đó. Nếu nhìn lại những thời điểm phương Bắc "xuất binh" thì chúng ta có thể nhìn ra một quy luật mang tính tương đối nào đó, để từ đó rút ra những bài học xương máu cho mình.
Biến động đầu thế kỷ X
Rõ ràng, chúng ta có thể khám phá quy luật này từ những biến động ở đầu thế kỷ X - những biến động mang tính nền móng, chính thức mở ra một giai đoạn lịch sử độc lập, tự chủ vững bền của dân tộc.
Đó là giai đoạn mà Khúc Thừa Dụ - một hào phú ở vùng Hải Dương ngày nay lật đổ quan lại nhà Đường để trở thành Tiết độ sứ Giao Châu (miền Bắc Việt Nam bây giờ) và liên tiếp truyền lại vị thế này cho con mình là Khúc Hạo và cháu mình là Khúc Thừa Mỹ.
Cũng từ đây, hàng loạt biến động chính trị xuất hiện: Vua Nam Hán sai tướng là Lý Khắc Chính sang đánh và bắt sống Khúc Thừa Mỹ. Một viên tướng của Khúc Hạo trước đây là Dương Đình Nghệ liền kéo quân đánh đuổi Lý Tiến, tự xưng là Tiết độ sứ.
Nhưng rồi thuộc cấp của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn lại làm phản, giết Dương Đình Nghệ. Thế nhưng vị tướng cũng là con rể của Dương Đình Nghệ - Ngô Quyền đã nhanh chóng cất binh, báo thù.
Tới lúc này, Kiều Công Tiễn đã làm một hành động mà sau này đã lặp đi lặp lại trong lịch sử, đó là "cõng rắn về cắn gà nhà", chạy sang cầu cứu nhà Nam Hán. Kết cục của màn "cầu cứu" này ra sao thì ai ai cũng biết: Kiều Công Tiễn bị Ngô Quyền giết chết khi quân Nam Hán còn chưa kịp sang và sau đó hàng vạn quân Nam Hán bị Ngô Quyền đánh dẹp trên sông Bạch Đằng.
Kết luận rút ra sau hàng loạt biến động này chính là: Quân Nam Hán chỉ kéo quân vào khi Kiều Công Tiễn "cầu cứu", nghĩa là khi nước ta đang nội loạn, các phe phái không ngừng đánh dẹp nhau. Trong cách mô tả của những ngòi bút sử phong kiến, chúng ta thấy rằng, phe có chính nghĩa (Ngô Quyền) đã giành chiến thắng, phe muốn dựa sức ngoại bang để củng cố quyền lực (Kiều Công Tiễn) đã thất bại.
Nếu câu chuyện ở thế kỷ X với những dích dắc liên hệ giữa Khúc Thừa Mỹ - Dương Đình Nghệ - Kiều Công Tiễn - Ngô Quyền có thể tạm nhìn nhận một cách giản lược như vậy thì đế cuối thế kỷ X, cuộc chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê, gắn liền với cuộc xâm lược của nhà Tống còn phức tạp hơn nhiều.
Cuộc chuyển giao quyền lực Đinh - Lê
Nói đến đây, hẳn ai cũng nhớ về câu chuyện, hai cha con vua Đinh bị ám sát. Năm ấy, Đinh Toàn mới 6 tuổi đã lên ngôi thay cha. Mà lúc đó ở bên cương, nhà Tống đang chuẩn bị "xuất binh" nhăm nhe đánh phá nước ta.
Không còn cách nào khác, Thái hậu Dương Vân Nga khoác áo long bào lên vai Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, một động tác chính trị mềm dẻo để chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê, để cả nước có thể yên tâm đánh giặc.
Tuy nhiên, hậu thế có quyền đặt câu hỏi: Nếu cha con vua Đinh không bị ám sát hoặc nếu sau khi cha con bị ám sát, ngôi vua vẫn thuộc về nhà Đinh (chứ không phải chuyển cho Lê Hoàn) thì nhà Tống có dám đem quân xâm lược không?
Đã có những nguồn tài liệu nghi ngờ rằng, phải chăng chính Thái hậu Dương Vân Nga đã cấu kết với Lê Hoàn để ám hại cha con vua Đinh? Và khi hai cha con thác đi, người được kết vị quá nhỏ, quyền lực nằm trong tay Lê Hoàn thì đã có những đại thần nhà Đinh phản ứng, điển hình là việc Đinh Điền và Nguyễn Bặc đã đem quân đánh Lê Hoàn nhưng sau đó thất bại.
Tức là, trong cuộc chuyển giao quyền lực Đinh - Lê, nội bộ triều chính lúc đó có mâu thuẫn và nội bộ đất nước không vững mạnh. Thế nên mới có chuyện, Lê Hoàn lên ngôi, nhà Tống liền cử sứ sang trách phạt: "Nhà Đinh truyền tập đã ba đời, vậy cho Đinh Toàn làm thống soái, Lê Hoàn làm phó. Nhược bằng Đinh Toàn còn trẻ tuổi không làm được, Lê Hoàn phải bắt mẹ con Đinh Toàn sang chầu Bắc Triều...".
Lê Hoàn không thể chấp nhận lời đề nghị vô lối này và dường như chỉ chờ có thế, nhà Tống xuất binh đem đánh nước ta. Trong câu chuyện này, một lần nữa chúng ta thấy nhà Tống chỉ có cớ xâm lược khi nội bộ Đinh - Lê xảy ra các vấn đề mâu thuẫn.
Lịch sử lặp lại ở cuộc chuyển ngôi Trần - Hồ đầu thế kỷ XV
Và lịch sử lại tiếp tục lặp lại trong việc chuyển giao ngôi báu từ nhà Trần sang nhà Hồ ở đầu thế kỷ XV. Khi Hồ Quý Ly chính thức soán ngôi của chúa ngoại là Trần Thiếu đế, chuyển ngôi từ nhà Trần sang nhà Hồ thì lập tức quân Minh cử sứ thần sang trách phạt. Thêm vài đó, nhà Minh một mặt đòi cha con Hồ Quý Ly phải cống nạp đất biên giới, mặt khác chủ động bắt giữ sứ thần nhà Hồ cử sang.
Đỉnh điểm của màn nhiễu sách này là việc nhà Minh dựng lên một nhân vật gọi là Trần Thiêm Bình. Người đó được cho là hậu duệ của vua Trần, rồi đề nghị đưa Trần Thiêm Bình lấy lại quyền lực.
Có không ít tài liệu sử sách cho rằng, Trần Thiêm Bình thực chất chỉ là một gia nô của vua Trần trước đây. Cho nên phía sau chiêu bài Trần Thiêm Bình là một âm mưu nham hiểm. Dĩ nhiên, cha con Hồ Quý Ly hiểu rõ về âm mưu đó nên đoàn người đưa Trần Thiêm Bình vừa sang biên giới đã bị Hồ Quý Ly cho đánh giết. Dường như chỉ đợi có vậy, nhà Minh lập tức xua quân xâm lược, giương ngọn cờ gọi là "phù Trần diệt Hồ" để mị dân.
Lịch sử nói rõ với hậu thế rằng, sau khi dễ dàng đánh dẹp được cha con họ Hồ, nhà Minh không hề "phù Trần" minh đã từng rêu rao mà tìm mọi cách biến Đại Việt trở thành một quận của phương Bắc như thế kỷ X.
Một trong những chính sách tàn bạo nhất và khủng khiếp nhất mà chúng làm ra là đốt sách vở, di cảo giá trị của tổ tiên người Việt - khiến cho con cháu người Việt mãi sau này bị đứt đoạn văn hóa với tiền nhân.
Nhìn lại cái cách nhà Minh xua quân xâm lược trong bối cảnh chuyển giao Trần - Hồ, một lần nữa chúng ta lại thấy rõ thêm cái quy luật: nội bộ quốc gia lủng củng, phương Bắc tức thì mượn cớ xâm lăng.
Nếu phải chỉ thêm một ví dụ nữa cho "quy luật lịch sử" này thì đó là câu chuyện diễn ra vào cuối thời Lê - Trịnh, khi vua Lê Chiêu Thống muốn khôi phục lại quyền lực thực tế (vốn đã nằm trong tay chúa Trịnh) bằng cách cầu cứu Bắc triều. Khi ấy, Lê Chiêu Thống ém quân ở vùng Lạng Giang gần Trung Quốc, Hoàng Thái hậu nhà Lê đem luôn cả công tử nhà Lê chạy sang kêu xin Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị.
Tóm lại:
Qua những câu chuyện lịch sử trên có thể thấy, trong những lúc ngặt nghèo, đau thương nhất của dân tộc thì may mắn thay và tự hào thay luôn có một người anh hùng kiệt xuất nổi lên. Kiều Công Tiễn cầu viện Nam Hán thì có anh hùng Ngô Quyền nổi dậy đánh bại; chuyển giao Trần - Hồ, một lần nữa chúng ta lại thấy rõ thêm cái quy luật: nội bộ quốc gia lủng củng, phương Bắc tức thì mượn cớ xâm lăng.
Đến khi Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh với hy vọng (trong ảo vọng) rằng có thể khôi phục lại quyền lực vốn có của dòng họ thì trên bầu trời lịch sử lại lừng lững xuất hiện một Quang Trung đại phá quân Thanh trong chớp mắt.
Song có một bài học khác, quan trọng không kém cần được rút ra đó chính là trước khi xuất hiện những người anh hùng dân tộc thì trong lòng dân tộc đã diễn ra những cuộc binh biến, nổi loạn và chính những thời điểm mà trong lòng dân tộc binh biến, nội loạn - khi mà nội lực dân tộc bị suy yếu hơn bao giờ hết thì phương Bắc đã không bỏ lỡ cơ hội xuất binh xâm lược.
Những cuộc xâm lược thời phong kiến là những cuộc xâm lược được nhận diện bằng con người - vó ngựa - và vũ khí. Trong một thời điểm nào đó, ở một bối cảnh nào đó của lịch sử, rất có thể sẽ diễn ra những cuộc xâm lấn khó nhận diện hơn. Thành thử, bài học xương máu sau mấy ngàn năm đó là phải luôn luôn xây dựng tinh thần đại đoàn kết và nội lực quốc gia.
Một khi chắc chắn đảm bảo được hai yếu tố đoàn kết và nội lực thì không một kẻ thù nguy hiểm nào có thể khiến dân tộc này nao núng!
(Theo Phan Mỹ Chí/CAND Online)
Xem thêm: Những sự thật không thể không biết về Chiến tranh Việt Nam
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận