Vì sao Chú Lăng Nghiêm là thần trú trừ ma, loại bỏ năng lực tiêu cực uy lực nhất của Phật giáo?
Nhiều ý kiến nhận định, Chú Lăng Nghiêm là thần chú mạnh đến mức toàn bộ không gian và Pháp giới bị ngập trong ánh sáng tốt đẹp của nó. Nhờ Chú Lăng Nghiêm mà Phật pháp tồn tại lâu đến thế.
Mục lục bài viết
"Học Chú thì trước tiên cần phải chánh tâm, thành ý. Tâm không chính thì học chú gì cũng thành tà. Tâm chánh, học Chú mới có cảm hứng. Chánh tâm cũng chưa đủ, cần phải thành ý. "Thành" tức là lúc nào mình cũng hết sức chuyên chú, chuyên tâm, không xao lãng không làm những chuyện cẩu thả, tắc trách. Đúng vậy mới có cảm ứng", Hòa thượng Tuyên Hóa.
Chú Lăng Nghiêm là bùa trú gì?
Với những Phật tử Phật giáo thì Chú Lăng Nghiêm là một loại quen thuộc nhưng cũng rất đặc biệt. Có người từng nói rằng, khi nào người trì tụng Chú Lăng Nghiêm thì thế giới vẫn tồn tại. Nếu không còn ai niệm Chú Lăng Nghiêm thì thế giới sẽ bị phá hủy rất nhanh. Bởi lúc đó Chánh Pháp không còn nữa.
Nhiều ý kiến khác còn cho rằng, chỉ cần tụng niệm 1 câu, một chữ, một hội hoặc toàn bài chú cũng đều khiến trời đất rung chuyển, quỷ thần khóc than, yêu ma lánh xa, ly mị độn hình. Ánh hào quang của Chú Lăng Nghiêm có thể chiếu sáng mọi không gian, toàn bộ Phật pháp. Tụng Chú Lăng Nghiêm còn có thể tiêu trừ nghiệp chướng trong bao đời tiền kiếp.
Vậy Chú Lăng Nghiêm là gì mà có uy lực lớn đến vậy? Chú Lăng Nghiêm (tiếng Phạn: Shurangama Mantra). Đây là thần chú dài nhất và lâu đời nhất của Phật giáo Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Một số sách Phật ghi rằng, Chú Lăng Nghiêm chưa được biết đến ở Tây Tạng nhưng ở một vài ghi chép khác cho thấy, loại Chú này trong kinh điển Phật giáo Kim Cương Thừa, có liên quan đến trường phái Tangmi và Shingon.
Trong chương đầu tiên của Kinh Lăng Nghiêm (Chú Lăng Nghiêm) có giải thích về nguồn gốc của Chú. Theo đó, Chú Lăng Nghiêm có từ khi Đại Phật Thích Ca Mâu Ni cứu Tôn Giả A Nan (Ananda), trong Nhục Kế trên đỉnh đầu phóng ra luồng ánh sáng vô cùng quý báu, trong ánh sáng phun ra hoa sen ngàn cánh, có một vị Như Lai ngồi trên sen đó. Vị Hóa Phật, ấy cũng là Đế Thù La Thi, lại còn hiện hằng hà sa số vị Nội Mật Bồ Tát với Kim Cương Thần tràn đầy hư không.
Chú Lăng Nghiêm đồng nghĩa với các thực hành của Bồ Tát Quan Thế Âm - vị Bồ tát quan trọng của Phật giáo Đông Nam Á và Phật giáo Tây Tạng. Trong Lăng Chú Nghiêm nhắc đến các vị Phật giáo như Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Kim Cương Thủ, chư Phật Dyani và Phật Dược Sư Lưu Ly. Chú Lăng Nghiêm thường được dùng để bảo vệ hoặc thanh lọc chop thiền sư. Chú được coi là một phần vô cùng quan trọng của Phật giáo Shingon ở Nhật Bản.
Một số ý kiến cho rằng, Chú Lăng Nghiêm được phổ biến đầu tiên tại Trung Quốc vào khoảng năm 179 -168 TCN. Chú Lăng Nghiêm ngày nay chúng ta sử dụng được dịch từ tiếng Phạn sang Tiếng Trung (thời nhà Đường). Sau đó được dịch sang nhiều thứ tiếng khác, trong đó có tiếng Việt.
Chú Lăng Nghiêm được nhận xét là dài và khó. Nhưng nếu tụng được thì lại rất hay. Đa số các Chùa đều tụng khóa lễ sáng không thiếu Chú Lăng Nghiêm, Chú Đại Bi, Thập Chú, Bát Nhã, niệm Phật, hồi hướng...
Được biết, Chú Lăng Nghiêm chia làm 5 bộ: Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. 5 bộ kinh này thuộc về 5 phương:
- Kim Cang bộ : Thuộc về phương Đông, Đức Phật A Súc là chủ.
- Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Phật Bảo Sinh là chủ.
- Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ.
- Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Phật A Di Đà là chủ.
- Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Phật Thành Tựu là chủ.
Giáo lý nhà Phật nhìn nhận, được học, trì tụng Chú Lăng Nghiêm là nhân duyên lớn nhất của người con Phật, xuất gia cũng như tại gia, hiểu được nghĩa lý của Chú Lăng Nghiêm thì nhân duyên là không thể nghĩ bàn, có thể nói là trăm năm vạn kiếp mới gặp được. Cho nên nếu có nhân duyên thù thắng thì sẽ trì tụng và hiểu được nghĩa lý thâm sâu của Chú Lăng Nghiêm.
Ý nghĩa thâm sâu của Chú Lăng Nghiêm
Chú Lăng Nghiêm được nhận xét là cốt tủy của Phật giáo. Nhờ Chú Lăng Nghiêm mà chánh Pháp mới tồn tại lâu như vậy. Chú Lăng Nghiêm (Vương miện của Đức Phật) mạnh đến mức không có chỗ nào trong không gian hoặc toàn bộ Phật giới mà không bị ngập bởi ánh sáng tốt đẹp của thần chú này.
Hòa thượng Tuyên Hóa từng khai thi về Chú Lăng Nghiêm nói, người tụng trì chú này nên cung kính chư thiên, các vị thần. Không những thiện thần cần phải cung kính mà ác thần cũng nên cung kính. Nên thu thúc những tạp khí cống cao ngã mạn của mình. Cho nên việc thọ trì Chú Lăng Nghiêm nói hoài không hết. Tụng Chú Lăng Nghiêm vì mong muốn lợi ích thì không phải là chân chánh muốn trì tụng chú Lăng Nghiêm.
Hòa thượng Tuyên Hóa cũng nói rằng, nếu muốn trì tụng Chú Lăng Nghiêm thì nên xem Chú quan trọng như cơm ăn, áo mặc, ngủ nghĩ. Chúng ta nên làm như thế, còn được cảm ứng gì, linh nghiệm gì thì không nên nghĩ đến.
"Chú Lăng Nghiêm là linh văn, mỗi câu đều có hiệu lực, quý vị không nên nghĩ tôi trì Chú Lăng Nghiêm đã lâu như thế tại sao không hiệu nghiệm. Ăn cơm không đó thì được rồi, còn muốn ăn bữa cơm này vĩnh viễn không đó, làm sao có thể được! Ngày mai quý vị phải ăn bữa nữa mới không đó, tụng Chú Lăng Nghiêm cũng như vậy, ngày trì tụng, công đức không luống mất, lâu ngày thì có công dung của trì tụng", Hòa thượng Tuyên Hóa nói.
Trong bài khai thị về Chú Lăng Nghiêm của mình, Hòa thượng Tuyên Hóa cũng nhấn mạnh, trì tụng Chú Lăng Nghiêm quan trọng nhất là phải nghiêm trì giới luật, nếu không giữ gìn giới luật, trì tụng như thế nào cũng không linh nghiệm. Nếu giữ được giới luật, không có lòng tật đố chướng ngại, không tham sân si thì trì tụng Chú càng có cảm ứng lớn, lợi ích lớn.
Nói về 5 đệ Chú Lăng Nghiêm thì trong đó có 2 đệ đầu đa số là danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát, A La Hán, chư Thiên, Hộ Pháp thiện thần, còn ba đệ cuối đa số là danh hiệu của các vị Quỷ Thần Vương. Bản Hán văn chỉ có đệ Nhất và đệ Nhị, còn ba đệ cuối thì không có.
Chú Lăng Nghiêm có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn đến Phật pháp. Người xuất gia hoặc tại gia đều có thể trì tụng chú mỗi ngày. Việc này giúp cho hành giả tăng trưởng trí huệ, vượt qua mọi sự chướng ngại thử thách trên con đường tu tập. Đồng thời giúp bảo vệ chánh Pháp trụ thế lâu dài, lợi lạc chúng sinh.
Điều đáng chú ý, trì tụng Chú đều đặn mỗi ngày, bất cứ lúc nào, ở đâu, tụng ra tiếng hoặc tụng thầm, công đức đều tăng trưởng. Vì trú Lăng Nghiêm là Đại định, cũng là vua trong các định. Định lực của Chú hàng phục được tất cả yêu ma tà đạo. Chỉ cần tụng lên thì chư Thiên, hộ pháp, thiên thần đều cung kính bảo hộ hành giả. Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều nhờ Đại định Chú Lăng Nghiêm mà thành tựu. Người tu hành không thể thiếu Đại định Chú Lăng Nghiêm.
Tương truyền, ngài A Nan là đa văn bậc nhất, thuộc lòng Đại Tạng Kinh mà lúc gặp nạn, nếu không nhờ đức Phật sai Bồ Tát Văn Thù dùng chú Lăng Nghiêm đến cứu thì đã mất giới thể. Nếu mất giới thể thì không thể thành tựu đạo Nghiệp.
Trên đường tu tập có rất nhiều chướng ngại, thử thách. Nếu không nhờ sự gia tru của chư Phật, Bồ Tát, hộ pháp thiện thần thì khó mà thành tựu đạo nghiệp. Vì thế, Chú Lăng Nghiêm chính là hành trang, tư lương không thể thiếu của người tu tập.
Chú Lăng Nghiêm theo phiên âm tiếng Việt
Nam mô Lăng Nghiêm Hội thượng Phật Bồ tát. (đọc 3 lần)
Diệu trạm tổng trì bất động tôn, Thủ lăng nghiêm vương thế hy hữu, Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng, Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân, Nguyện kim đắc quả thành Bảo Vương, Hòan độ như thị hằng sa chúng, Tương thử thâm tâm phụng trần sát, Thị tắc danh vi báo Phật ân, Phục thỉnh thế tôn vị chứng minh,
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, Như nhất chúng sinh vị thành Phật, Chung bất ư thử thủ nê hoàn, Đại hùng đại lực đại từ bi, Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc, Linh ngã tảo đăng vô thượng giác, Ư thập phương giới tọa đạo tràng, Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong,
Thước ca ra tâm vô động chuyển. Nam mô thường trú thập phương Phật, Nam mô thường trú thập phương Pháp, Nam mô thường trú thập phương Tăng, Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, Nam mô Quan Thế Âm bồ tát, Nam mô Kim Cang Tạng bồ tát.
Nhĩ thời thế tôn, tùng nhục kế trung, dõng bá bảo quang, quang trung dõng xuất, thiên diệp bảo liên, hữu hoá Như Lai, tọa bảo hoa trung, đảnh phóng thập đạo, bá bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị hiện, thập hằng hà sa, kim cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới, đại chúng ngưỡng quan, úy ái kim bảo, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính Phật, vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như-Lai.
1. Đệ nhất
Nam mô tát đa tha, tô già đa da a ra ha đế, tam-miệu tam bồ-đà-tỏa. Tát đát tha Phật đà cu tri sắc ni sam. Nam mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ. Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đà, cu tri nẩm. Ta xá ra bà, ca tăng già nẩm.
Nam mô Lô kê A-la-hán đa nẩm. Nam mô tô lô đa ba na nẩm. Nam mô ta yết rị đà già di nẩm. Nam mô lô kê tam miệu già đa nẩm. Tam miệu già bà ra để ba đa na nẩm. Nam mô đề bà ly sắc nỏa. Nam mô tát đà da tỳ địa da đà ra ly sắc nỏa.
Xá ba noa yết ra ha, ta ha ta ra ma tha nẩm. Nam mô bạt ra ha ma ni. Nam mô nhơn đà ra da. Nam mô bà già bà đế Lô đà ra da. Ô ma bát đế, Ta hê dạ da. Nam mô bà già bà đế. Na ra dả noa da. Bàn giá ma-ha tam mộ đà ra. Nam mô tất yết rị đa da.
Nam mô bà già bà đế, Ma ha ca ra da. Địa rị bác lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na, nê bà tất nê. Ma đát rị già noa. Nam mô tất yết rị đa da. Nam mô bà già bà đế. Đa tha già đa câu ra da. Nam mô bát đầu ma câu ra da.
Nam mô bạc xà ra câu ra da. Nam mô ma ni câu ra da. Nam mô già xà câu ra gia, Nam mô bà già bà đế, Đế rị trà du ra tây na, Ba ra ha ra noa ra xà da, Đa tha già đa da. Nam mô bà già bà đế. Nam mô A di đa bà da, Đa tha dà đa da, A ra ha đế, Tam miệu tam-bồ-đà da.
Nam mô bà già bà đế, A sô bệ da, Đa tha già đa da, A ra ha đế, Tam-miệu tam-bồ-đà da. Nam mô bà già bà đế, Bệ xa xà da, câu lô phệ trụ rị da, Bát ra bà ra xà da, Đa tha già đa da. Nam mô bà già bà đế, Tam bổ sư bí đa, Tát lân nại ra lặc xà da, Đa tha già đa da, A ra ha đế, Tam-miệu tam-bồ-đa da.
Nam mô bà già bà đế, Xá kê dã mẫu na duệ, Đa tha già đa da, A ra ha đế, Tam-miệu tam-bồ-đa da. Nam mô bà già bà đế, Lặc đát na kê đô ra xà da, Đa tha già đa da, A ra ha đế, Tam-miệu tam-bồ-đà da, Đế biều, nam mô tát yết rị đa, Ế đàm bà giá bà đa, Tát đác tha già đô sắc ni sam, Tát đác đa bát đác lam.
Nam mô a bà ra thị đam, Bác ra đế dương kỳ ra, Tát ra bà bộ đa yết ra ha, Ni yết ra ha yết ca ra ha ni, Bạt ra bí địa da sất đà nể, A ca ra mật rị trụ, Bát rị đát ra da nảnh yết rị, Tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, Tát ra bà đột sắc tra.
Đột tất phạp bát na nể phạt ra ni, Giả đô ra thất đế nẫm, Yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, Tỳ đa băng ta na yết rị, A sắc tra băng xá đế nẩm, Na xoa sát đác ra nhã xà, Ba ra tát đà na yết rị, A sắc tra nẩm, Ma ha yết ra ha nhã xà, Tỳ đa băng tát na yết rị, Tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà.
Hô lam đột tất phạp, nan giá na xá ni, Bí sa xá tất đác ra, A kiết ni ô đà ca ra nhã xà, A bát ra thị đa câu ra Ma ha bác ra chiến trì, Ma ha điệp đa, Ma ha đế xà, Ma ha thuế đa xà bà ra, Ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể,A rị da đa ra, Tỳ rị câu tri, Thệ bà tỳ xà da, Bạt xà ra ma lễ để, Tỳ xá lô đa.
Bột đằng dõng ca, Bạt xà ra chế hắc na a giá, Ma ra chế bà bát ra chất đa, Bạt xà ra thiện trì, Tỳ xá ra giá, Phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, Tô ma lô ba, Ma ha thuế đa, A rị da đa ra, Ma ha bà ra a bác ra, Bạt xà ra thương yết ra chế bà, Bạt xà ra câu ma rị, Câu lam đà rị.
Bạt xà ra hắt tát đa giá Tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca, Khuất tô mẫu bà yết ra đá na, Bệ lô giá na câu rị da, Dạ ra thố sắc ni sam, Tỳ chiếc lam bà ma ni giá, Bạt xà ra ca na ca ba ra bà, Lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, Thuế đa giá ca ma ra Sát xa thi ba ra bà, Ế đế di đế, Mẫu đà ra yết noa, Ta bệ ra sám, Quật phạm đô, Ấn thố na mạ mạ tỏa.
2. Đệ nhị
Ô hồng, Rị sắc yết noa, Bác lặc xá tất đa, Tát đác tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng, Đô lô ung Chiêm bà na. Hổ hồng, Đô lô ung Tất đam bà na. Hổ hồng, Đô lô ung Ba ra sắc địa da tam bác xoa noa yết ra.
Hổ hồng, Đô lô ung, Tát bà dược xoa hắt ra sát ta, Yết ra ha nhã xà, Tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, Đô lô ung, Giả đô ra thi đế nẫm, Yết ra ha ta ha tát ra nẩm, Tỳ đằng băng tát na ra.
Hổ hồng, Đô lô ung, Ra xoa, Bà già phạm Tát đác tha già đô sắc ni sam, Ba ra điểm xà kiết rị, Ma ha ta ha tát ra, Bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, Câu tri ta ha tát nê đế lệ, A tệ đề thị bà rị đa, Tra tra anh ca Ma ha bạt xà lô đà ra, Đế rị bồ bà na, Man trà ra, Ô hồng, Ta tất đế bạt bà đô, Mạ mạ Ấn thố na mạ mạ tỏa.
3. Đệ tam
Ra xà bà dạ, Chủ ra bạt dạ, A kỳ ni bà dạ, Ô đà ca bà dạ, Tỳ xa bà dạ, Xá tát đa ra bà dạ, Bà ra chước yết ra bà dạ, Đột sắc xoa bà dạ, A xá nể bà dạ, A ca ra mật rị trụ bà dạ, Đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, Ô ra ca bà đa bà dạ, Lặc xà đàn trà bà dạ, Na già bà dạ, Tỳ điều đát bà dạ, Tô ba ra noa bà dạ.
Dược xoa yết ra ha, Ra xoa tư yết ra ha, Tất rị đa yết ra ha, Tỳ xá giá yết ra ha, Bộ đa yết ra ha, Cưu bàn trà yết ra ha, Bổ đơn na yết ra ha, Ca tra bổ đơn na yết ra ha, Tất kiền độ yết ra ha, A bá tất ma ra yết ra ha, Ô đàn ma đà yết ra ha, Xa dạ yết ra ha, Hê rị bà đế yết ra ha.
Xả đa ha rị nẩm, Yết bà ha rị nẩm, Lô địa ra ha rị nẩm, Mang ta ha rị nẩm, Mê đà ha rị nẩm, Ma xà ha rị nẩm, Xà đa ha rị nữ, Thị tỷ đa ha rị nẩm, Tỳ đa ha rị nẩm, Bà đa ha rị nẩm, A du dá ha rị nữ, Chất đa ha rị nữ, Đế sam tát bệ sam, Tát bà yết ra ha nẩm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di.
Ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Trà diễn ni hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Ma ha bát du bát đác dạ, Lô đà ra hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Na ra dạ noa hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di.
Đát đỏa già lô trà tây hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Ma ha ca ra ma đác rị già noa hất ri đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Ca ba rị ca hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Xà dạ yết ra, ma độ yết ra Tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Tỳ rị dương hất rị tri, Nan đà kê sa ra dà noa bác đế, Sách hê dạ hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Na yết na xá ra ba noa hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, A-la-hán hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Tỳ đa ra già hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, Kê ra dạ di, Bạt xà ra ba nể, Câu hê dạ, câu hê dạ Ca địa bát đế hất rị đởm, Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di Kê ra dạ di, Ra xoa võng, Bà dà phạm, Ấn thố na mạ mạ tỏa.
4. Đệ tứ
Bà dà phạm, Tát đác đa bát đác ra, Nam-mô tý đô đế, A tất đa na ra lặc ca, Ba ra bà tất phổ tra, Tỳ ca tát đát đa bát đế rị, Thập Phật ra thập Phật ra, Đà ra đà ra, Tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng.
Hổ hồng, Phấn tra, Phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, Ta ha, Hê hê phấn, A mâu ca da phấn, A ba ra đề ha da phấn, Ba ra bà ra đà phấn, A tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, Tát bà đề bệ tệ phấn, Tát bà na già tệ phấn, Tát bà dược xoa tệ phấn, Tát bà kiền thát bà tệ phấn, Tát bà bổ đơn na tệ phấn.
Ca tra bổ đơn na tệ phấn, Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, Tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, Tát bà thập bà lê tệ phấn, Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn, Tát bà xá ra bà noa tệ phấn, Tát bà địa đế kê tệ phấn, Tát bà đát ma đà kê tệ phấn, Tát bà tỳ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, Xà dạ yết ra ma độ yết ra, Tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn.
Tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, Giả đô ra phược kỳ nể tệ phấn, Bạt xà ra câu ma rị, Tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, Ma ha ba ra đinh dương xoa tỳ rị tệ phấn, Bạt xà ra thương yết ra dạ, Ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, Ma ha ca ra dạ, Ma ha mạt đát rị ca noa.
Nam mô ta yết rị đa dạ phấn, Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, Bột ra ha mâu ni duệ phấn, A kỳ ni duệ phấn, Ma ha yết rị duệ phấn, Yết ra đàn trì duệ phấn, Miệc đát rị duệ phấn, Lao đát rị duệ phấn, Giá văn trà duệ phấn, Yết la ra đát rị duệ phấn, Ca bát rị duệ phấn, A địa mục chất đa ca thi ma xá na, Bà tư nể duệ phấn, Diễn kiết chất, Tát đỏa bà tỏa, Mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
5. Đệ ngũ
Đột sắc tra chất đa, A mạt đát rị chất đa, Ô xà ha ra, Dà ba ha ra, Lô địa ra ha ra, Ta bà ha ra, Ma xà ha ra, Xà đa ha ra, Thị tỷ đa ha ra, Bạt lược dạ ha ra, Kiền đà ha ra, Bố sử ba ha ra, Phả ra ha ra, Bà tỏa ha ra, Bác ba chất đa, Đột sắc tra chất đa.
Lao đà ra chất đa, Dược xoa yết ra ha, Ra sát ta yết ra ha, Bế lệ đa yết ra ha, Tỳ xá giá yết ra ha, Bộ đa yết ra ha, Cưu bàn trà yết ra ha, Tất kiền đà yết ra ha, Ô đát ma đà yết ra ha, Xa dạ yết ra ha, A bá tất ma ra yết ra ha, Trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, Rị Phật đế yết ra ha, Xà di ca yết ra ha, Xá câu ni yết ra ha, Lao đà ra nan địa ca yết ra ha, A lam bà yết ra ha, Kiền độ ba ni yết ra ha.
Thập Phật ra yên ca hê ca, Trị đế dược ca, Đát lệ đế dược ca, Giả đột thác ca, Ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, Bạt để ca, Tỷ để ca, Thất lệ sắc mật ca, Ta nể bát để ca, Tát bà thập phạt ra, Thất lô kiết đế, Mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, A ỷ lô kiềm, Mục khê lô kiềm.
Yết rị đột lô kiềm, Yết ra ha yết lam, Yết noa du lam, Đản đa du lam, Hất rị dạ du lam, Mạt mạ du lam, Bạt rị thất bà du lam, Tỷ lật sắc tra du lam, Ô đà ra du lam, Yết tri du lam, Bạt tất đế du lam, Ô lô du lam, Thường già du lam, Hắc tất đa du lam, Bạt đà du lam, Ta phòng án già bát ra trượng già du lam.
Bộ đa tỷ đa trà, Trà kỳ ni thập bà ra, Đà đột lô ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, Tát bát lô ha lăng già, Du sa đát ra, ta na yết ra, Tỳ sa dụ ca, A kỳ ni ô đà ca, Mạt ra bệ ra kiến đa ra, A ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, Địa lật lặc tra, Tỷ rị sắc chất ca, Tát bà na câu ra, Tứ dẫn già tệ, yết ra rị dược xoa đác ra sô.
Mạt ra thị, phệ đế sam ta bệ sam, Tất đát đa bát đát ra, Ma ha bạt xà lô sắc ni sam, Ma ha bác lặc trượng kỳ lam, Dạ ba đột đà xá dụ xà na, Biện đát lệ noa, Tỳ đà da bàn đàm ca lô di, Đế thù bàn đàm ca lô di, Bát ra tỳ đà bàn đàm ca lô di, Đát điệc tha.
Án, A na lệ, Tỳ xá đề, Bệ ra bạt xà ra đà rị, Bàn đà bàn đà nể, Bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, Ta bà ha. (đoạn này đọc tụng 3 lần).
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận