Chuyện chưa kể về trận huyết chiến giữa tượng binh Đại Việt và kỵ binh Mông Cổ ở Bình Lệ Xuyên

Bình Lệ Nguyên là một trận đánh lớn giữa tượng binh Đại Việt và kỵ binh Mông Cổ. Binh lính Đại Việt cưỡi lưng voi, dùng cung, kích, câu liêm đánh kỵ binh Mông Cổ. Hỗ trợ đắc lực cho bộ binh Đại Việt tấn công trực diện vào chân và bụng ngựa các vũ khí như gươm, đao, rìu, giáo, kích…

Đỗ Thu Nga
09:00 03/11/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Đại Việt và Mông Cổ đã chuẩn bị gì trước trận đánh

Đại hãn đời thứ ba Mông Cổ là Mông Kha quyết tâm tiêu diệt nhà Nam Tống bằng việc đánh vào sườn nhà Tống thông qua việc cử người em trai là Hốt Tất Liệt đánh Đại Lý. Đánh Đại Lý xong vào năm 1253, Hốt Tất Liệt trở về, giữ Ngột Lương Hợp Thai ở lại đánh các nước chưa hàng phục. 

Năm 1257, việc chiếm Đại Việt nằm trong chiến lược tổng thể của quân đội Mông Cổ nhằm tiêu diệt Nam Tống. Bốn cánh quân của Mông Cổ tấn công Nam Tống từ những điểm khác nhau phía Nam và phía Tây. Nắm quyền chỉ huy 3 cánh quân kia là Mông Kha, Hốt Tất Liệt và Tháp Sát Nhi. Cánh quân còn lại – cánh quân thứ tư, sau khi chiếm Đại Việt sẽ đánh thốc vào Nam Tống từ mạn cực Nam. Tổng chỉ huy của cánh quân thứ tư là Ngột Lương Hợp Thai. Nhà Trần (Đại Việt) được thành lập vào năm 1225, đến thời điểm nhà Nguyên xâm phạm, đã có nền hòa bình 180 năm kể từ khi nhà Tống xâm lược vào năm 1077.

Quân đội của Ngột Lương Hợp Thai sau khi chiếm được Đại Lý rồi đóng binh ở Bắc Đại Việt, sai hai sứ giả đến dụ hàng Đại Việt. Nhà Trần khi ấy đã nhốt hai viên sứ giả vào ngục, trói bằng dây tre. Theo NGuyên sử, khi không thấy tin tức sứ giả, Ngột Lương Hợp Thai bèn sai tướng là Triệt Triệt Đô cùng 2000 người chia đường tiến binh tấn công Đại Việt. 

huyet-chien-giua-tuong-binh-dai-viet-va-ky-binh-mong-co-nam-1258
Kỵ binh Mông Cổ

Tháng 8 năm 1257, chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất báo tin có sứ Nguyên sang. Vua Trần không nghe lời dụ hàng, xuống chiếu ra lệnh đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế của Trần Quốc Tuấn và truyền cả nước sắm sửa vũ khí. Năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai lại sai sứ sang Đại Việt chiêu hàng vua Trần. Trần Thái Tông chẳng những không khuất phục mà còn sai bắt giam 3 sứ giả. Đợi mãi không thấy tin sứ giả,  tháng 11 năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai tiến quân đánh Đại Việt. 

Ngày 17/1/1258, vua Trần Thái Tông ngự giá thân chinh, bày trận ở Bình Lệ Nguyên (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc), tại khu vực làng Hương Canh và phụ cận, bờ nam sông Phan (phụ lưu sông Cà Lồ). 

Khi đó, đội tượng binh của Đại Việt dàn hàng ngang tại tiền quân che chắn cho hàng hàng lớp lớp bộ binh, kỵ binh phía sau. Vua TRần Thái Tông được sự hộ vệ của các hiệu Cấm quân, chọn một điểm cao thoáng để quan sát và chỉ huy. Tháp tùng người khi ấy còn có nhiều quan lại, tướng lĩnh trong triều. Bất luận quan văn hay quan võ, ai ai cũng mặc áo giáp, cầm gương sẵn sàng chiến đấu. 

Khi ấy, Ngột Lương Hợp Thai cũng bừng bừng khí thế dẫn quân Mông Cổ sang Đại Việt với ý định "đánh nhanh thắng nhanh". Bởi đây vốn là sở trường của tên tướng giặc này. 

Sử sách chép, quân Mông Cổ kéo đến vùng Bình Lệ Nguyên thì đụng quân Đại Việt bày trận chờ sẵn. Kỳ thực, việc đụng quân Đại Việt ở bên ngoài thành trì, chiến lũy chính là điều mà binh tướng Mông Cổ rất mong muốn. Vì quân Mông Cổ có khả năng đánh dàn trận quy ước cực kỳ tốt, đã đánh bại nhiều đạo quân đông đảo và tinh nhuệ, trang bị vũ khí tối tân trên thế giới.  Những cuộc công thành thường mất nhiều công sức, mất nhiều thời gian. 

huyet-chien-giua-tuong-binh-dai-viet-va-ky-binh-mong-co-nam-1258-h
Thiết kỵ Mông Cổ và tư trang

Nhận được tin báo của du binh, Ngột Lương Hợp Thai lập tức lên kế hoạch "đánh nhanh, diệt gọn" quan quân nhà Trần. Y chia quân thành 3 thê đội để vượt sông tấn công.

- Đội thứ nhất do tướng Triệt Triệt Đô chỉ huy lĩnh nhiệm vụ tiên phong, dẫn một đạo kỵ binh nhanh nhẹn nhất tiến về hướng hạ lưu sông Phan để vượt sông, rồi vòng ra phía sau trận tuyến của quân Đại Việt tìm cướp thuyền. Ngột Lương Hợp Thai lệnh cho Triệt Triệt Đô:  “Quân ngươi khi đã qua sông, đừng đánh chúng vội, chúng tất đến chống lại ta. Phò mã theo sau cắt hậu quân của chúng. Người rình cướp lấy thuyền. Quân Man nếu tan vỡ chạy ra sông, không có thuyền tất bị ta bắt” (theo Nguyên sử). Cánh quân này ước chừng có khoảng 5000 quân.

- Đội quân thứ 2 do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy ước chừng có 3 vạn quân. Theo kế hoạch vượt sông tấn công mở màn vào chính diện quân Đại Việt. Đội quân này lấy những hàng binh Đại Lý dàn trước để hứng thương vong, kỵ binh Mông Cổ đi sau để hỗ trợ và tung đòn quyết định.

- Đội quân thứ ba do phò mã Mông Cổ là Hoài Đô cùng tướng A Truật con trai của Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy. Đội quân này có những kỵ binh giỏi nghề cung tên nhận nhiệm vụ đánh tạc sườn quân Đại Việt rồi vòng đánh sâu vào hậu tuyến Đại Việt để cắt đứt liên lạc giữa tiền quân và hậu quân của Đại Việt làm cho quân Đại Việt trước sau không thể tiếp ứng lẫn nhau. Ước chừng tuyến quân này khoảng 5000 người.

Nói đến đây thì thấy rằng kế hoạch tác chiến của quân Mông Cổ khá chu đáo, có tính toán, phân chia từng bộ phận rõ ràng nhằm mục đích tiêu diệt quân Đại Việt và bắt sống vua Trần chỉ trong một trận.

Thế nhưng, quân Mông Cổ không lường trước được, phía Đại Việt ta cũng có những tính toán riêng. Thế trận của Đại Việt là thế trận tĩnh của một quân đội đặc trưng vùng đồng bằng. Thế trận của quân Mông Cổ là thế trận năng động của những sắc dân sống bằng nghề du mục và săn bắn.

Huyết chiến tượng binh và kỵ binh

Bàn bạc xong kế sách, quân Mông Cổ chia quân để chuẩn bị hành động. Nhưng thực tế tình hình không diễn ra thuận theo ý của Ngột Lương Hợp Thai. Tướng Triệt Triệt Đô vượt sông ở hướng hạ lưu tưởng có thể vượt khỏi tầm quan sát của cụm quân chính phía Đại Việt để tiến đến bến thuyền. Song, quân của Triệt đã bị phát hiện, đụng độ với toán hậu quân của Đại Việt. Triệt cùng toàn đội tiên phong buộc phải quay ngựa lại giao chiến.

Mặc dù quân ta bị thiệt hại khá nhiều khi đánh nhau với kỵ binh của Triệt Triệt Đô nhưng quân tiếp ứng kéo tới ngày một đông. Triệt Triệt Đô mãi đánh với hậu quân Đại Việt, không thể tiếp tục nhiệm vụ cướp thuyền được nữa.

Lúc bấy giờ, Ngột Lương Hợp Thai từ bên kia sông thấy Đại Việt biến trận, lại thấy cái bụi tung trời thì biết có giao chiến. Y liền cho trung quân vượt sông tiếp ứng. 

Chờ cánh quân Mông Cổ lên bờ ở nam sông Pham vua Trần Thái Tông hạ lệnh cho đội tượng binh nhất loạt xông lên. Theo sau là các hàng quân kỵ binh và bộ binh. Quân Mông cổ cố gắng tiên lên không lùi, toàn đội rốt cuộc cũng qua được sông, làm thành thế tựa lưng vào sông mà đánh. 

Các hàng quân phía trước của quân Mông Cổ với nhiều binh lính người Đại Lý chịu tổn thất nặng nề trước sức mạnh càng lướt của tượng binh Đại Việt. Kỵ binh Mông Cổ xông lên giáp chiến cũng không chống nổi voi. 

Binh lính Đại Việt trên lưng voi dùng cung tên bắn và dùng kích, câu liêm để đánh giết kỵ binh Mông Cổ. Hỗ trợ đắc lực cho bộ binh Đại Việt tấn công trực diện vào chân và bụng ngựa Mông Cổ là gương, đao, rìu, giáo, kích... 

huyet-chien-giua-tuong-binh-dai-viet-va-ky-binh-mong-co-nam-1258-f

Không giáp chiến được với tượng binh, kỵ binh Mông Cổ chọn các cụm bộ binh và kỵ binh Đại Việt mà xông vào, rồi di chuyển xung quanh tượng binh mà bắn tên. Với chiến thuật này thì kỵ binh Mông Cổ mới chứng tỏ được sự vượt trội của mình. Thế trận dằn co bất phân thắng bại.

Cánh trung của Mông Cổ giao chiến với tiền quân Đại Việt không lâu thì hậu quân Mông Cổ vượt sông sang đến. Cánh quân này có nhiều tay kỵ cung thiện xạ. A Truật cho quân nhắm vào voi và mắt voi mà bắt tới tấp. Sau đó lại nhắm vào quản tượng bắn.

Cung tên Mông Cổ sắc nhọn, đi nhanh và chuẩn xác khiến quân ta có phần "lép vế". Dẫu cho tượng binh Đại Việt đều có chở lính bắn tên trên lưng voi, có lợi thế bắn tên từ trên cao nhưng số lượng rất hạn chế. Vài trăm thớt voi cũng chỉ khoảng ngàn tay cung không thể đấu cung nổi với kỵ binh Mông Cổ. Nhiều voi chiến bị trúng tên vào chỗ hiểm như mắt, vòi. Voi đau đớn, hoảng sợ quay đầu chạy, giẫm cả lên người và ngựa Đại Việt.

Trận thế của ta do vậy mà lộ sơ hở, quân Mông Cổ chớp cơ hội theo đường voi chạy mà đánh thọc sâu vào trận tuyến Đại Việt. Quân ta kiên cường chiến đấu, gây cho địch cũng khá nhiều thiệt hại.

Ở trận đó, kỵ binh Mông Cổ chiếm thế chủ động, ngựa khỏe và di chuyển nhanh. Địa hình ình Lệ Nguyên lại khá bằng phẳng, nền đất cứng, thuận lợi cho kỵ binh thảo nguyên thi thố hết sở trường. 

Sau đó, quân Mông Cổ dùng chiến thuật chia cắt và diệt từng cụm một, khiến cho quân Đại Việt thiệt hại nhiều mà không thể chặn được đà tiến của địch. Chẳng mấy chốc, những tên lính Mông Cổ đã tràn tới giao chiến với quân hộ vệ của vua Trần Thái Tông.

 Vua lúc này đang quan chiến và điều tiết trận đánh, thấy vậy bèn tuốt gươm xông lên, cùng quân sĩ lăn xả giết địch, khí thế quân Đại Việt do đó mà tăng lên bừng bừng. 

Các hiệu quân tinh anh của Đại Việt cùng cả những quan chức trong triều đều hăng hái chiến đấu cạnh nhà vua, đánh bật nhiều quân Mông Cổ trở lại. Trận tuyến hai bên nhiều chỗ đan xen vào nhau, cuộc hỗn chiến dữ dội vẫn tiếp diễn…

Xem thêm: Dĩ dật đãi lao - chiến thuật cổ giúp nhà Trần đẩy quân Nguyên sa lầy

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận