Lưu Nhân Chú - danh tướng xuất chúng của nghĩa quân Lam Sơn: Tài năng như cây tùng, cây bách; chất người như ngọc
Trong 10 năm liên tục chống quân Minh xâm lược, Lưu Nhân Chú liên tục có nhiều cống hiến to lớn cho nghĩa quân Lam Sơn nói riêng và sự nghiệp cứu nước, cứu dân nói chung.
Thân thế ít biết của Lưu Nhân Chú
Lưu Nhân Chú (?-1433), hay Lê Nhân Chú là công thần khai quốc nhà Lê sơ. Ông là người xã An Thuận Thượng, Đại Từ, Thái Nguyên.
Lý lịch xuất thân của Lưu Nhân Chú chỉ được sử cũ ghi chép rất vắn tắt như sau: Tuổi trẻ của ông rất nghèo khó. Ông phải buôn bán lặt vặt để kiếm sống. Gia phả nhà họ Lưu cho biết thêm vài chi tiết, họ Lưu đã ba đời nối nhau làm quan ở Thái Nguyên, từng được nhà Trần phong tới tước Hầu. Khi Lê Lợi chuẩn bị dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lưu Nhân Chú cùng cha là Lưu Trung đã hăng hái đến hưởng ứng.
10 năm ròng "nằm gai nếm mật" cùng Lê Lợi đánh giặc Minh
Sử chép, vào năm 1416, ông và các hào kiệt tham dự Hội thề Lũng Nhai cùng với Lê Lợi. Những ngày đầu khởi nghĩa Lam Sơn, ông theo Lê Lợi chinh chiến ở vùng núi Chí Linh, công pha tên đạn, ra vào trận mạc đem hết sức bảo vệ đất nước.
Trong Bộ chỉ huy Lam Sơn, ông giữ chức vụ phó chỉ huy vệ binh trong đội quân Thiết Đột. Lưu Nhân Chú đã liên tục có nhiều cống hiến cho Nghĩa quân Lam Sơn nói riêng và sự nghiệp cứu nước, cứu dân ở đầu thế kỷ XV nói chung.
Đến năm 1424, để phá thế bao vây của quân Minh, phát triển cuộc khởi nghĩa, theo kế sách của Nguyễn Chính, Lê Lợi chuyển hướng địa bàn chiến lược vào Nghệ An. Sau khi hạ thành Đa Căng (Thọ Xuân, Thanh Hóa), phục kích thắng trận ở Bồ Đằng (Quỳ Châu, Nghệ An), nghĩa quân Lam Sơn tiến sang bao vây bức hàng thành Trà Lân (Con Cuông, Nghệ An).
Khi đó quân Minh từ thành Nghệ An và Tây Đô tiến lên hòng giành lại. Nghĩa quân Lam Sơn tổ chức phục kích ở Khả Lưu và Bồ Ải là hai ải trọng yếu trên đường tiến lên Trà Lân. Trận ấy, quân ta thắng to, quân địch bại trận phải rút về Nghệ An.
Cũng trong trận đó, Lưu Nhân Chú là một trong các tướng cầm quân, chiến đấu rất tài trí và dũng mãnh; “ông xông lên trước hãm trận, thu được toàn thắng, nổi tiếng một thời” (Theo Đại Việt thông sử).
Từ Trà Lâm, nghĩa quân Lam Sơn giải phóng các huyện đồng bằng, bao vây thành Nghệ An, củng cố đại bản doanh Đỗ Gia. Đồng thời tiến quân vào Nam giải phóng Hóa Châu. Sau đó tiếp tục tiến ra Bắc vây thành Diễn Châu, đánh úp quân Minh từ Đông Đô vào cứu viện.
Đến năm 1425, Lê Lợi tiến quân ra Bắc. Lưu Nhân Chú cùng các tướng Đinh Lễ, Lê Sát, Lê Triện đánh úp phá quân Minh ở thành Tây Đô. Lưu Nhân Chú được phong chức Thông hầu.
Vào mùa thu năm 1426, Lưu Nhân Chứ cùng với Lê Sát, Lưu Bị, Lê Khuyển, Lê Nanh mang quân ra lộ Trường Sơn, Thiên Trường, Tân Hưng, Kiến Xương để chặn đường của quân Minh do Phương Chính, Lý An chỉ huy, khi cánh quân này định bỏ Nghệ An đưa quân về cứu Đông Đô.
Khi nhận thấy quân Minh tập trung lực lượng tinh nhuệ ở thành Nghệ An, thành Đông Đô trốn rỗng, Lê Lợi sai "Lưu Nhân Chú và Bùi Bị ra từ Thiên Quang, đi tuần vùng Thiên Trường, Kiến Xương, Tân Hưng, Thượng Hồng, Hạ Hồng, Bắc Giang và Lạng Sơn để diệt đạo viện binh từ Lưỡng Quảng kéo xuống” (Cương Mục).
Tháng 3/1427, Lưu Nhân Trú được phong chức Hành quân đô đốc tổng quản, Nhập nội đại tư mã, lĩnh 4 vệ Tiền, Hậu, Tả, Hữu, kiếm coi việc quân Tân vệ. Vào tháng 6 cùng năm, ông được phong chức Tư không và dặn rằng: "Chức tước đã cao thì sớm hôm phải chăm chỉ, không nên trễ nãi, biếng nhác, khiến uổng phí cả công lao". Nói rồi, liền ban cho ông một cái tán (Đại Việt thông sử).
Sang đến mùa thu năm 1427, nhà Minh sai Liễu Thăng mang 10 vạn quân kéo sang giải vây cho Vương Thông. Lưu Nhân Chú nhận lệnh cùng Lê Sát mang 1 vạn quân, 5 thớt voi đực lên trước ải Chi Lăng đợi đánh. Ông cùng hợp mưu với Lê Sát, sai Trần Lựu giả thua để nhử Liễu Thăng vào Chi Lăng rồi tung quân mai phục ra đánh úp.
Liễu Thăng, Lương Minh bị chém chết. Hai tướng Minh còn lại Hoàng Phúc và Thôi Tụ cố mở đường tiến về Xương Giang. Lưu Nhân Chú và Lê Sát chặn đánh, giết được 2 vạn quân địch.
Khi Phúc và Tụ kéo xuống Xương Giang thì mới biết bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân giữa đồng không. Lê Lợi liền sai Lê Lý cùng Lê Văn An, Lê Khôi mang quân tới tiếp ứng cho Lưu Nhân Chú tổng tiến công quân Minh ở Xương Giang, giết và bắt sống toàn bộ quân địch. Tướng Hoàng Phúc cũng bị bắt.Mộc Thạnh cầm một cánh quân viện binh khác, nghe tin Liễu Thăng bại trận nên bỏ chạy về. Vương Thông bị vây ngặt ở Đông Quan không còn quân cứu ứng phải xin giảng hoà để rút về nước.
Lê Lợi và Vương Thông bằng lòng đổi con tin. Thông cử hai tướng Sơn Thọ, Mã Kỳ sang bên quân Lam Sơn còn Lê Lợi sai con cả là Lê Tư Tề cùng Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan. Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (10/12/1427), Lưu Nhân Chú theo Lê Lợi và 13 tướng lĩnh tham gia Hội thề Đông Quan với tướng Vương Thông nhà Minh. Quân Minh cam kết rút về nước.
Bề tôi tận trung với vua với nước
Vào ngày 15 tháng 4 âm lịch năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (lê Thái Tổ). Lưu Nhân Chú được ban quốc tính và được phong làm Suy trung Tá trị Hiệp mưu Dương vũ công thần, nhập nội kiểm hiệu, Bình chương quân quốc trọng sự, đứng đầu hàng võ trong triều đình, kiêm coi chính sự nhà nước.
Dịp này, vua Lê Thái Tổ ban bài chế cho ông, có đoạn: "Trẫm nghĩ: Vua tôi một thể, chân tay giỏi thì đầu được tôn. Giúp đỡ có người, rường cột chắc thì nhà mới vững. Người là người phò tá có tài, là bề tôi tận trung của nước. Nên trẫm cho vinh hạnh ở ngôi Tể tướng, và vẫn giữ trách nhiệm coi nắm binh quyền. Nay ban cho tờ chiếu chỉ; để nêu rõ bậc quan sang” (Đại Việt thông sử).
Tháng 5/1429, Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, Lưu Nhân Chú được phong làm Á thượng hầu, đứng hàng thứ 5. Trong dịp vua phong con trưởng là Lê Tư Tề làm Quốc vương, con thứ Nguyên Long làm Hoàng Thái tử, Lưu Nhân Chú là một trong 7 vị đại thần được mang kim sách phong cho 2 người.
Đến năm 1431, Lưu Nhân Chú được chuyển làm Nhập nội tư khấu. Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, Lê Thái Tông lên thay còn nhỏ, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính. Lê Sát ghen ghét Lưu Nhân Chú, ngầm sai người đánh thuốc độc giết hại ông.
đến năm 1437, Lê Thái Tông đã giải nỗi oan cho ông, bãi chức Lê Sát. Năm 1484, Lê Thánh Tông truy tặng ông làm Thái phó Vinh Quốc công.
Lời bài: Theo sử cũ còn lưu truyền đến nay, trong 10 năm gian khổ chống quân Minh, Lưu Nhân Chú đã có đóng góp to lớn cho nghĩa quân Lam Sơn nói riêng và sự nghiệp cứu nước, cứu dân nói chung. Sau khi Lê Lợi lên ngôi, Lưu Nhân Chú tận tụy cống hiến cho triều đình, nhân dân.
Tiếc rằng, trong suốt 10 năm "nếm mật nằm gai” cùng vua Lê đánh Nam dẹp Bắc, xông pha trận mạc trăm trận có thừa, binh hùng tướng mạnh của giặc chẳng thể làm cho Lưu Nhân Chú ngã gục, nhưng vào thời thái bình thịnh trị chỉ vì bị bạn đồng liêu, cũng là người từng vào sinh ra tử với mình là Lê Sát ghen ghét, Lưu Nhân Chú đành phải tức tưởi mà chết.
Thế mới hay rằng, lịch sử bao giờ cũng công bằng đối với những người có công với dân, với nước và mong rằng hậu thế đừng ai giẫm phải vết xe đổ của người xưa.
Xem thêm: Cung phi Bạch Ngọc cùng công lao to lớn với nhà Hậu Trần và khởi nghĩa Lam Sơn
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận