Danh nhân Trịnh Hoài Đức: Một đời tài hoa, thanh bạch không nhà ở

Trịnh Hoài Đức là 1 trong 3 người con xuất chúng của đất Gia Định. Ông góp công lớn trong việc xây dựng vương triều họ Nguyễn năm xưa. Mấy mươi năm lăn lộn chốn quan trường, ông luôn một lòng tận trung, liêm khiết hết mức.

Đỗ Thu Nga
07:00 16/11/2021 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Một đời tài hoa

Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) còn có tên là An, tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai. Ông là công thần của triều đình nhà Nguyễn, là một nhà thơ, nhà văn  và là sử gia nổi tiếng ở thế kỷ 18 - 19. Ông cùng với 2 công thần khác là Lê Quang Định và Ngô Nhân Tịnh được người đời phong tặng danh hiệu "Gia định tam gia", cũng là niềm tự hào của đất Sài Gòn - Gia Định

Theo sách "Xã hội Việt Nam thời Lê - Nguyễn", nhà Nghiên cứu Lê Nguyễn cho rằng: "Giữa thế kỷ 18, nhiều quan dân của nhà Minh vì bất phục triều Mãn Thanh mới lên nắm quyền, đã bỏ nước ra đi và Đại Việt là một trong những miền đất họ chọn xin tá túc. Trong số những người này có Trịnh Hội, nguyên quán huyện Trường Lạc, tỉnh Phúc Châu, Trung Quốc, theo Trần Thượng Xuyên (Trần Thắng Tài), vào khai khẩn đất Trấn Biên (Biên Hòa)”.

Trịnh Hoài Đức là cháu 3 đời của Trịnh Hội. Cha ông là Trịnh Khánh vốn học sâu biết rộng nhưng mất sớm khi ông mới 10 tuổi. Trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn, mẹ đưa ông về đất Phiên Trấn (Gia Định) sinh sống. Tại đây, bà gửi con theo học cụ Võ Trường Toản – bậc danh sĩ tài ba được mệnh danh là tổ ngành giáo dục Nam Kỳ.

Theo Pháp luật Việt Nam, cùng học với Trịnh Hoài Đức khi ấy có Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh. Chính những năm tháng miệt mài học tập dưới sự dạy dỗ của người thầy kiệt xuất mà Trịnh Hoài Đức cùng các bạn học đã được trau dồi tri thức và tinh thần yêu nước để sau dùng giúp dân, giúp nước, làm nên công danh sự nghiệp khiến người đời nể phục.

chuyen-doi-thanh-bach-cua-danh-nhan-trinh-hoai-duc-8

Sau 10 năm học thầy Võ Trung Toản, cơ hội đến với Trịnh Hoài Đức cùng các bạn. Vào năm 1788, chúa Nguyễn Ánh được người dân Nam bộ ủng hộ đã đánh bật quân Tây Sơn ra khỏi đất Gia Định. Chúa cũng mở khoa thi cử tìm kiếm nhân tài để thống nhất giang sơn về một mối. Năm đó, Trịnh Hoài Đức cùng hai bạn học ứng thí và thi đậu. Trong đó, Trịnh Hoài Đức được bổ dụng làm Hàn lâm Chế Cáo. 

Đến năm 1789, ông được bổ làm Tri huyện ở Tân Bình rồi được kiêm làm điền tú phụ trách việc khai khẩn đất đai, ruộng đất Gia Định. Năm 1793, Nguyễn Ánh phong con trai là Hoàng tử Phúc Cảnh làm Đông cung Thái tử, Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định được cử làm Đông cung Thị giảng. Sau đó, theo Thái tử Cảnh trấn thủ thành Diêm Khánh.

Sau đó, Trịnh Hoài Đức tiếp tục được thăng làm Hữu Tham tri bộ Hộ (chức Tam tri bộ Hộ tương đương với Thủ trưởng Bộ Tài chánh ngày nay). Năm 1801, khi chúa Nguyễn đánh Phú Xuân, Trịnh Hoài Đức chăm lo chuyện hậu cần, tiếp vận quân lương. Năm 1802, chúa Nguyễn hoàn thành đại nghiệp và lên ngôi vua, phong ông làm Thượng thư bộ Hộ, đồng thời sung làm Chánh sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Hai năm sau (1804), sứ nhà Thanh là Tề Bố Sâm được cử sang nước ta làm lễ tuyên phong vua Gia Long, Trịnh Hoài Đức được cử làm Thông dịch sứ.

Đến năm 1802, vua Gia Long cử Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng trấn Gia Định Thành, Trịnh Hoài Đức làm Hiệp Tổng trấn. Năm 1812, ông được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thượng thư, kiêm quản Khâm thiên giám. Năm 1813 lại đổi làm Lại bộ Thượng thư. Năm 1816 ông lại được bổ nhiệm làm Hiệp Tổng trấn Gia Định Thành lần thứ hai. Năm 1820, Trịnh Hoài Đức được cử tạm giữ chức quyền tổng trấn thay Nguyễn Văn Nhơn về kinh.

Cũng trong năm 1920, sau khi đăng cơ, vua Minh Mạng triệu ông về kinh làm Lại bộ Thượng thư như trước, lại kiêm chức Binh bọ Thượng thư - tương đương với chức Bộ trưởng Quốc hội ngày nay. Đồng thời sung chức Phó Tổng tài Quốc sử giám phụ trách việc chọn nhân tài, thi cử. Năm đó, nhà vua xuống chiếu cầu sách cũ, Trịnh Hoài Đức liền dâng lên bộ "Gia đình thành thông chí" do ông biên soạn từ thời còn ở Gia Định.

Dù đã kinh qua hàng loạt chức vụ, từng cầm quân, từng ngoại giao nhưng người ta thường nhắc tới ông bởi tài năng văn chương. Sinh thời, ông đã sáng tác và để lại cho  đời nhiều tác phẩm văn học như: “Gia Định thành thông chí”, “Cấn Trai thi tập”, “Gia Định Tam gia thi tập”, “Thoái thực trung biên tập”, “Minh Bột di ngư”, “Quan quang tập'”, “Khả dĩ tập”, “Tự truyện”, “Lịch đại kỷ nguyên”, “Khương Tế lục”, “Đi sứ cảm tác”…

Đặc biệt nhất có lẽ là tác phẩm “Gia Định thành thông chí” - bộ bách khoa tự điển địa lý nhân văn Gia Định xưa (Nam bộ ngày nay). Đây là tác phẩm được các nhà sử học coi như sách gối đầu giường mỗi khi nghiên cứu về vùng đất phương Nam thời kỳ khai khẩn, mở đất.

Được biết, sách này ghi chép tỉ mỉ mọi điều về xứ Gia Định với chi tiết, đầy đủ về sông núi, sản vật, tổ chức làng xã, nếp sống của người dân. Cuốn sách chẳng những được vua khen tặng mà sau còn dịch sang tiếng Pháp.

Một đời thanh bạch

Trịnh Hoàng Đức lăn lộn mấy chục năm chốn quan trường, trải qua hai đời vua Gia Long và Minh Mạng nhưng vẫn luôn kiên định giữ được chữ tận trung với dân với nước. Ông là bậc kỳ tài được vua nhà Nguyễn trọng dụng giao nhiều trọng trách quan trọng. Sinh thời, ông được phong đến Hiệp biện Đại học sĩ, hàm tòng nhất phẩm, quyền cao chức trọng nhưng ông vẫn sống một đời thanh bạch như đóa hoa sen.

Sách Đại Nam liệt truyện từng chép: "Đức không có nhà riêng, vua cho 3.000 quan tiền và gỗ, gạch ngói, cho làm nhà để làm chỗ nghỉ ngơi tắm gội. Đức bèn làm vườn quỳ ở phía ngoài cửa Đông. Rồi lại kiêm lĩnh Thượng thư Bộ Lễ”. Phàm là người kinh qua Thượng thư 4 bộ mà giữ được mình thanh sạch, đến lúc đầu bạc mà giữa chốn kinh đô vẫn không nhà cửa, đến mức vua đứng ra xây cho thì quả xưa hiếm có.

chuyen-doi-thanh-bach-cua-danh-nhan-trinh-hoai-duc-5
Khu lăng mộ của vị quan "thanh bần" Trịnh Hoài Đức

Năm 1823, khi đã tuổi cao sức yếu, ông dâng biểu xin thôi nhiệm và đi theo đường biển trở về Gia Định cho đúng với câu “cáo chết quay đầu về núi”. Vua Minh Mạng khi đó cử đại thần Phạm Đăng Hưng đến thăm và thuyết phục ông ở lại, ban cho sâm quế để tẩm bổ. Ông đành phải xin nghỉ phép 3 tháng rồi trở lại tiếp tục nhiệm vụ vua giao.

Đáp lại tấm lòng của vị đại thần tận trung này, khi ông mất ở tuổi 61, Minh Mạng đã khóc xót thương: "Trẫm nghe tin không ngờ nước mắt nhỏ xuống, bèn sai nghỉ triều 3 ngày và hậu ban cho sa, gấm, trừu, đoạn, tiền, gạo, dầu đèn; tặng Thiếu phó Cần chính điện Đại học sĩ, cho tên thụy là Văn Khúc; cho một tế đàn”.

“Ngày đưa về chôn sai Hoàng tử Miên Hòa đến nhà khâm mạng, ban cho rượu, điển lệ cấp tuất rất hậu; các bày tôi không ai sánh kịp. Đám tang của Trịnh Hoài Đức đến Gia Định, Tổng trấn là Lê Văn Duyệt thân hành đi viếng, nói với người rằng: Hiệp biện họ Trịnh là người đáng khen đời nay, được thấy tôn trọng như thế”.

Đại Nam Liệt truyện còn chép thêm rằng: "Đức là người cẩn thận, phong độ, trầm tĩnh, nghiêm chỉnh, học vấn rộng rãi, nghị luận thường giữ đại thể”. 

Cả cuộc đời ông sống bình dị, khiêm nhường, đến trước lúc mất tâm nguyện cũng chỉ là được đưa linh cữu về quê mẹ ở làng Bình Trước, Biên Hòa (nay thuộc Khu phố 3, phường Trung Dũng) chôn cất. Nơi ông yên giấc ngàn thu là ngôi mộ đơn sơ xây bằng đá ong, người dân quen gọi là Lăng Ông.

Khu vực này sau đó trở thành quần thể mộ táng dòng họ Trịnh vì ngoài lăng mộ Trịnh Hoài Đức và chánh thất họ Lê ra, nơi đây còn có 11 ngôi mộ của thân tộc ông. Ngày nay, tại khu phố 3, phường Trung Dũng, TP Biên Hòa, lăng mộ Trịnh Hoài Đức nằm trong con hẻm hẹp và sâu giữa khu dân cư đông đúc.

Xem thêm: Vua xuống chiếu xin lỗi đại thần và bá tánh, chuyện tưởng như đùa này từng 3 lần xảy ra trong sử Việt

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận