Ý nghĩa và tên gọi chính xác của các pho tượng chư Phật và Bồ tát
Trong các tự viện, hình tượng đức Phật và Bồ tát được các sư thầy bố trí thờ tự khắp nơi. Tuy nhiên rất ít người biết được tên gọi chính xác, lịch sử và ý nghĩa của mỗi pho tượng được thờ, cũng như tại sao lại để ở vị trí như vậy.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Ðức Phật Thích Ca, trước khi thành Phật tên gọi là Sĩ Ðạt Ta. Con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia, ở thành Ca Tỳ La (Kapilavatsu).
Sau 49 ngày ngồi thiền định ở dưới cội Bồ đề, Ngài bừng ngộ thấy rõ chân lý của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả năng giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Sau khi chứng đạo, Ngài du hành thuyết pháp suốt 45 năm. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô kể. Năm 80 tuổi, nơi rừng Ta la song thọ ngoài thành Câu Thi, sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài nhập Niết bàn (mất – PV).
Đức Phật A Di Đà
Đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ ở cõi Cực-lạc phương tây A Di Đà.
Thời đức Phật Thế Tự Tại Vương, có vị quốc vương tên Kiều Thi Ca nghe Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi vua xuất gia làm Tỳ-kheo hiệu là Pháp Tạng. Một hôm, Ngài đảnh lễ Phật cầu xin chứng minh cho Ngài phát 48 lời nguyện.
Do nguyện lực ấy, sau này Ngài thành Phật hiệu A Di Đà ở cõi Cực-lạc. Đức Phật A Di Đà thường thờ có hai tượng: Tượng ngồi kiết già trên tòa sen, tay kiết định ấn, tương tự tượng Thích Ca.
Tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư không, bên dưới là bể cả sóng dậy chập chồng, mắt Ngài nhìn xuống, tay mặt đưa lên ngang vai, tay trái duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi tiếp cứu những người đang trầm mịch. Tượng ấy gọi là tượng Di Đà phóng quang.Đức Phật Di Lặc (hay còn gọi là Phật tương lai)
Ngài sinh vào ngày trăng tròn, tháng hai Ấn Ðộ, nhằm ngày rằm tháng tư âm-lịch Trung Hoa, năm 624. Ra đời chưa đầy một tháng, Ngài mồ côi mẹ, nhờ Dì mẫu nuôi dưỡng cho đến trưởng thành.Năm 29 tuổi, Ngài trốn vua cha vượt thành xuất gia tầm thầy học đạo. Ngài đã tu tập với nhiều vị đạo sư và sáu năm tu khổ hạnh, nhưng rốt cuộc Ngài thầy không đem lại sự giải thoát. Ngài trở lại lối sống bình thường, vận dụng tâm trí quán sát tướng chân thật của vũ trụ.
Địa Tạng Vương Bồ Tát
Địa Tạng Vương Bồ Tát là một trong sáu vị Bồ Tát quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Năm vị còn lại là Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát và Di Lặc Bồ Tát.
Theo kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, ngài Địa Tạng có 4 tiền thân là bậc trưởng giả, nữ nhân, vị vua, thiếu nữ Quang Mục.
Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị bồ tát cứu độ chúng sinh và bảo vệ trẻ em. Tương truyền rằng, những đứa trẻ yểu mệnh bởi vì còn vấn vương cha mẹ người thân nên quanh quẩn bên sông, không chịu bước qua cầu Nại Hà để đầu thai. Lúc này Đức Địa Tạng sẽ xuất hiện, an ủi, giảng giải và giúp đỡ các em bé tạo công đức qua sông.
Ngài Địa Tạng Bồ Tát cũng trải qua nhiều kiếp số, có kiếp người là thân nữ, có kiếp là thân nam, có kiếp lại làm vua,... Khi ngài thành Bồ Tát Địa Tạng, ngài phát nguyện độ hết chúng sinh rồi mới trở thành Phật.
Ngài Địa Tạng vô cùng gần gũi với mọi chúng sinh từ địa ngục ngạ quỷ, súc sinh cho đến những vong linh vừa mất, ngày giỗ ông bà cha mẹ, anh chị em, lục thân quyến thuộc,... Dù ở hoàn cảnh nào, ngài cũng hết mình cứu giúp khổ nạn.
Bồ tát Di Lặc
Bồ-tát Di Lặc người Nam Ấn, sinh trong nhà Bà-la-môn, sau theo Phật Thích Ca xuất gia tu hành. Sau khi Phật Thích Ca nhập Niết bàn, Bồ tát Di Lặc sinh về cung trời Đâu Suất, trụ trên đó bốn ngàn năm - tính theo năm tháng ở thế gian là sáu mươi ức bảy ngàn muôn năm sau đó sinh xuống thế giới này tu hành ở trong vườn Hoa Lâm, dưới cội cây Long Hoa thành Phật hiệu Di Lặc.Tượng Ngài thờ theo lối Tam Thế Phật cũng tương tự tượng Phật Thích Ca.
Chỉ đáng chú ý nhất bức tượng hình một vị Hòa thượng mập mạp, miệng cười toe toét, mặc áo phơi ngực, bày cái bụng to tướng, chung quanh có sáu đứa bé quấy nhiểu, đứa chọc tay vào mũi, đứa móc miệng đứa chìa vào hông..., Ngài vẫn cười tự nhiên.
Ngoài ra tượng Bồ-tát Di Lặc cũng y cứ vào điển tích Bố Đại Hòa thượng - Hòa thượng mang đãi lớn mà tô tượng.
Bố Đại Hòa thượng xuất hiện vào đời nhà Lương ở Trung Hoa, Ngài ăn mặc xốc xếch, đi đâu thường mang cái bị lớn, gặp ai có món gì xin món ấy dồn vào bị, gặp những bọn trẻ con đem ra phân phát cho chúng. Bọn trẻ con thích Ngài lắm.
Bồ tát Đại Thế Chí
Ngài đứng bên phải đức Phật A Di Đà, tướng người cư sĩ cổ đeo chuỗi anh lạc, tay cầm hoa sen xanh. Đây là lối thờ Di Đà tam tông: Đức Phật Di Đà ở giữa, bên tả Bồ-tát Quán Thế Âm, bên hữu Bồ-tát Đại Thế Chí.
Bồ tát Quán Thế Âm
Thuở đức Phật Bảo Tạng, Ngài là thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Ngài theo vua cha đến nghe Phật thuyết pháp và thỉnh Phật cùng Tăng chúng về cung cúng dường.
Do công đức ấy, được Phật thọ ký sau này làm Bồ- tát hiệu là Quán Thế Âm, phụ tá đức Phật A Di Đà giáo hóa chúng sinh và sau nữa sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương (kinh Bi Hoa quyển ba, phẩm Chư Bồ-tát bổn thọ ký).
Nghiên cứu về hình tượng Ngài, chúng ta thấy có lắm tượng. Những tượng y cứ theo giả sử, như: Quán Âm Hài Nhi (thể theo cốt truyện Quán Âm Thị Kính), Quán Âm Nam Hải, Quán Âm Tử Trúc...Những tượng y cứ theo các kinh phái Mật tông, như: Quán Âm Mã Đầu, Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Quán Âm Cữu Diện...
Có một pho tượng phổ thông nhất là Quán Âm thanh tịnh bình thùy dương liễu.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi
Thuở xưa, Ngài là con thứ ba vua Vô Tránh Niệm tên là Thái tử Vương Chúng. Do cúng dường đức Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sinh nên được hiệu là Đại Trí Văn Thù Sư Lợi và được thọ ký sau này sẽ thành Phật ở thế giới thanh tịnh Vô Cấu Bảo Chỉ, hiệu là Phật Văn Thù (Kinh Bi Hoa).
Ngài là vị Bồ-tát hiểu thấu Phật tính, đầy đủ ba đức: Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát; hằng đem ba đức ấy giác ngộ chúng sinh.Tay mặt Ngài cầm kiếm sắc bén. Tay trái cầm hoa sen xanh. Mình ngồi trên lưng Sư Tử xanh. Có nơi Ngài hiện tướng người xuất gia, vì với tư cách trợ hoá cùng đức Phật Thích Ca nên phải hiện thân người xuất gia như các vị Tỳ- kheo. Có chỗ thờ Ngài với hình thức người cư sĩ đội mũ, mặc giáp, cầm kiếm.
Bồ tát Phổ Hiền
Thuở xưa, Ngài là con thứ tư vua Vô Tránh Niệm tên là Năng Độ. Do cúng dường đức Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sinh, Ngài được Phật thọ ký sau này tu hạnh Bồ-tát sẽ được tên là Kim Cương Trí Huệ Quang Minh Công Đức và sẽ thành Phật ở thế giới Bất Huyền phương Đông hiệu là Phổ Hiền Như Lai (Kinh Bi Hoa)
Căn cứ vào vị trí đặt tượng Thích Ca tam tông, Bồ-tát Phổ Hiền hầu bên trái đức Phật Thích Ca, Bồ-tát Văn Thù hầu bên hữu. Bồ-tát Phổ Hiền thờ riêng với hình thức ngư cư sĩ, cưỡi voi trắng sáu ngà, hai tay chắp lại.
Hoài Lương (tổng hợp)
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận