‘Thanh Minh thượng hà đồ’ - Kiệt tác hội họa Trung Hoa và những bí ẩn chưa được giải mã

“Thanh minh thượng hà đồ” là một kiệt tác hội họa được vẽ bởi họa sĩ Trương Trạch Đoan vào thời Bắc Tống. Bức tranh đã ghi lại được hình ảnh về cuộc sống thành thị của đất nước Trung Hoa vào thế kỷ 12 cực kỳ sống động.

Hoa Nguyễn
10:49 27/01/2021 Hoa Nguyễn
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Thanh minh thượng hà đồ” là một kiệt tác hội họa được vẽ bởi họa sĩ Trương Trạch Đoan vào thời Bắc Tống. Thanh minh thượng hà đồ được vẽ trên tranh lụa thiết mầu dạng cuộn dài có kích thước 24,8×528,7 cm. Bức tranh đã ghi lại được hình ảnh về cuộc sống thành thị của đất nước Trung Hoa vào thế kỷ 12 cực kỳ sống động. Đây được xem là tác phẩm hội họa kinh điển của Trung Quốc và mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.

thanh-minh-thuong-ha-do-4
Kiệt tác hội hoa Trung Hoa - tác phẩm Thanh minh thượng hà đồ

Nhưng có phải bức tranh này chỉ thể hiện cuộc sống phồn hoa đô thị của Trung Quốc vào thời Bắc Tống hay không? Nội dung chính của “Thanh minh thượng hà đồ” là gì? Rất nhiều người từng xem qua bức tranh này đều cho rằng cảnh đẹp của Biện Kinh phồn hoa chính là những gì mà tác giả muốn gửi gắm. Tuy nhiên theo nhiều nghiên cứu hiện nay thì có lẽ những gì mà tác giả muốn truyền đạt thực sự là một cảnh tượng rất khác.

Họa sĩ Trương Trạch Đoan quê ở đâu?

Mọi người đều biết Trương Trạch Đoan là một họa sĩ cung đình nổi tiếng của thời Bắc Tống, sở trường của ông là dùng thước kẻ để vẽ các đường nét của kiến trúc nhà cửa, lầu các. Thông tin duy nhất liên quan đến Trương Trạch Đoan mà người xưa ghi chép lại đó là: “Hàn lâm Trương Trạch Đoan, tự Chính Đạo, là người Đông Võ. Từ nhỏ đọc sách, du học tại kinh sư, sau đó học vẽ tranh. Công việc chính là giới họa, đặc biệt thích vẽ thuyền bè, nhà cửa, cây cảnh, cầu đường phố xá, tự tạo thành phong cách cho riêng mình."

Sách xưa có miêu tả sơ lược về cuộc đời của Trương Trạch Đoan, từ đó có thể biết được bối cảnh gia đình và những trải nghiệm tại Biện Kinh của ông. Đầu tiên, trong sách có nhắc đến "hàn lâm". Hàn lâm này không phải là quan văn trong viện hàn lâm học sĩ mà là họa sĩ trong viện họa đồ hàn lâm. Năm Ung Hy thứ nhất (năm 984 TCN), Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa thiết lập nên viện họa đồ hàn lâm, là nơi để các họa sĩ nổi tiếng đến đây tập trung trồ tài hội họa của mình.

Gia đình của Trương Trạch Đoan rất tôn sùng Nho Giáo. Từ nhỏ ông đã ham đọc sách, sau lớn lên du học tại kinh sư. Sách mà lúc nhỏ Trương Trạch Đoan đọc chắc chắn là những tác phẩm kinh điển của Nho giáo. Thời kỳ Bắc Tống chú trọng giáo dục trẻ em, triều đình thiết lập “Đồng tử khoa”, tuyển chọn những người dưới 15 tuổi của địa phương có thiên phú về kinh sách và làm thơ để thi tiến sĩ.

Trương Trạch Đoan khi ấy du học tại kinh sinh, học thi phú luận sách trước, sau đó mới có thể tham gia thi tiến sĩ. Sau khi đỗ tiến sĩ thì mới có thể làm quan trong triều đình. Trong bức họa “Thanh minh thượng hà đồ” có vẽ bóng hình của những người du học tại kinh sư, giống như phần cuối vẽ một chiêu bài, trên đó có biết mấy chữ "ở lâu trong nhà Vương viên ngoài". Thông qua cửa sổ trên lầu có thể nhìn thấy một thư sinh đang đọc sách. Đây thật ra chính là đang miêu tả cuộc sống của Trương Trạch Đoan khi mới đến Biện Kinh.

Từ đó có thể suy đoán rằng, Trương Trạch Đoan có lẽ không thích ứng với các cuộc thi cử lúc đó, ông thất bại trong khoa thi vì thế nên mới buộc phải chuyển sang học vẽ tranh giới họa.

thanh-minh-thuong-ha-do-3
Một phần của tác phẩm Thanh minh thượng hà đồ của Trương Trạch Đoan

Giới họa là một loại vẽ tranh dùng thước để kẻ vẽ ra các chi tiết trong tranh, có rất nhiều cách vẽ khác nhau. Lúc vẽ tranh, buộc một miếng gỗ nhỏ ở phía dưới thân bút để bút vẽ có thể di chuyển theo cây thước, dựa theo ý đồ của họa sĩ mà vẽ ra các đường thẳng dài ngắn khác nhau. Cách vẽ giới họa khá đơn giản lại mang đến hiệu quả rất cao, chỉ cần sử dụng công cụ thành thạo, vẽ được tinh tế chính xác là sẽ có được sự tán dương của người ngắm tranh, vì vậy họa sĩ sẽ dễ kiếm sống hơn.

Mọi người đều cho rằng Trương Trạch Đoan vẽ đẹp nhất và tinh tế nhất là vẽ thuyền bè, thông qua những nét mực, vẽ ra được nét đẹp của tàu thuyền và các tòa kiến trúc, tự tạo thành một phong cách riêng biệt cho mình.

“Thanh minh thượng hà đồ” vẽ vào thời gian nào?

Sở dĩ bức tranh “Thanh minh thượng hà đồ” của Trương Trạch Đoan trở thành kiệt tác bất hủ như vậy là bởi nó có sự kết tinh của nhiều loại nghệ thuật khác nhau. Chúng ta nhìn thấy không gian ở trong tranh rất rộng lớn, đó là mượn khung cảnh rộng lớn của hội họa tôn giáo. Không gian rộng ra, nhưng kích thước của bức tranh vẫn không thay đổi, cái này được lấy từ nghệ thuật “vi họa” khá phát triển vào thời Bắc Tống.

Vậy bức họa này được vẽ vào thời điểm nào của Bắc Tống? Đầu tiên chúng ta phải nhìn vào trang phục và trang sức của các nhân vật trong tranh. Quần áo trang sức của nữ giới thay đổi nhanh nhất. Trong tranh, quần áo của phụ nữ đều là loại áo khoác ngoài kiểu to rộng. Theo ghi chép trong cuốn “Tẫn Dư Lục” của Từ Đại Trác vào thời Nam Tống, kiểu trang phục này xuất hiện vào những năm Sùng Ninh và Đại Quán. Đến những năm Tuyên Hòa, Thiệu Hưng thì loại trang phục này không còn thịnh hành nữa. 

Ngoài ra trong tranh chúng ta còn nhìn thấy có hai người đang đẩy xe, một chiếc ở ngoài đường lớn, một chiếc ở trong hẻm nhỏ, phía trên xe dùng một miếng vải lớn để che lại, trên tấm vải che có viết những chữ thảo rất lớn. Rõ ràng chúng vốn dĩ là tác phẩm thư pháp được dán lên tấm bình phong. Tác phẩm đẹp và đậm chất nghệ thuật như vậy lại bị xé làm vải che, vậy thì chắc chắn là người viết những chữ này đã xảy ra chuyện rồi. Điều này không khỏi khiến người ta nghĩ đến cuộc tranh chấp giữa các phe phái trong triều đình Bắc Tống vào những năm đầu Sùng Ninh. Người của phe phái cũ như Tô Thức, Hoàng Đình Kiên bị Tống Huy Tông phế truất, triều đình còn yêu cầu hủy bỏ toàn bộ sách và chữ viết của họ.

Nhìn xuống phía dưới, trong tranh có ghi rõ giá cả của thịt dê: “Mỗi cân 60 tròn”, theo tìm hiểu thì mức giá này hoàn toàn trùng hợp vào những năm đầu Sùng Ninh. Chúng ta nhìn thấy rất nhiều sự kiện và sự vật trong tranh đều có liên quan đến thời kỳ Sùng Ninh của Bắc Tống. Vì vậy, các chuyên gia phân tích cho rằng, bức tranh này rất có thể được vẽ trong những năm Sùng Ninh (1102-1106) của Bắc Tống.

thanh-minh-thuong-ha-do-6
Bức họa có khả năng được vẽ vào thời Sùng Ninh của Bắc Tống

Chữ “thượng” trong "thượng hồ" ở đây thực chất là một động từ, vì vậy “Thanh minh thượng hồ” có nghĩa là vào tiết Thanh minh, mọi người đều đi lên cầu để ngắm cảnh đẹp của mùa xuân.

Các học giả ở khắp nơi cho rằng “Thanh Minh thượng hà đồ” vẽ kinh thành Biện Kinh của Bắc Tống (nay là Khai Phong, Hà Nam). Là một thành phố lớn nhất trên thế giới tại thời điểm lúc bấy giờ với 100.000 hộ dân. Trước đây mọi người đều nói bức tranh này vẽ cảnh tượng khu Đông Thủy Minh ở góc Đông Nam của thành Biện Kinh. Nhưng đến nay các chuyên gia mới phát hiện không phải như vậy. Vì để làm rõ “Thanh minh thượng hà đồ” miêu tả đường xá phố phường nào, nhiều học giả đã dựa theo “Thanh minh thượng hà đồ” để vẽ tra bản đồ thành phố từ trên cao, sau đó đem đối chiếu với bản đồ của thành phố Biện Kinh, kết quả cho ra một phát hiện vô cùng kinh ngạc.

Thì ra nơi mà tác giả vẽ lại là một nơi không có tên !

Đầu tiên hãy nhìn vào cửa thành. Phóng to tấm biển của cửa thành bạn sẽ thấy trên đó chỉ viết một chữ “môn”, phía trước chữ môn có vài dấu chấm, chứng tỏ tác giả cố ý không muốn viết cụ thể tên của cửa thành.

Chúng ta lại xem tiếp, trong tranh có một ngôi miếu, trên cánh cổng của ngôi miếu có gắn đinh cửa. Đây là loại đinh tròn to, làm bằng đồng, thường được gắn lên các cánh cửa của các kiến trúc cung đình Trung Hoa thời xưa, chứng tỏ ngôi miếu tự này có thể là miếu của một vị hoàng tộc nào đó. Thế nhưng trên tấm biển chỉ chấm vài chấm mà không ghi rõ là tên miếu là gì. Còn cây cầu trong tranh, tại Biện Kinh khi ấy có tổng cộng 13 cây cầu giống như vậy, rốt cuộc cây cầu mà tác giả vẽ là cây cầu nào? 

Vì vậy có thể thấy, Trương Trạch Đoan vốn dĩ không muốn vẽ cụ thể một nơi nào, mà chỉ là muốn miêu tả khái quát một số chuyện đã xảy ra ở trong Biện Kinh, rồi tập hợp chúng vào trong một bức tranh. Cũng có nghĩa là “Thanh minh thượng hà đồ” chính là vẽ lại về những góc khuất của cuộc sống ở Biện Kinh thời gian ấy.

Nội dung chính của bức họa "Thanh minh thượng hà đồ"

Hãy cùng xem phần đầu của bức tranh, có một đội người ngựa đang trở về sau chuyến du ngoạn, quan nhân cưỡi ngựa, vợ quan ngồi kiệu, rất ung dung tự tại. Trong đó có một người vác hai con gà rừng do săn bắn được, nhưng tại thời điểm đó săn bắn là phạm vào luật trời. Đầu thời kỳ Bắc Tống có đưa ra chỉ thị, từ tháng 2 - 9 hàng năm là thời kỳ động vật sinh sản và nuôi con nên không cho phép săn bắn.

Nhìn xuống phía dưới thì là chợ, dọc con đường có các quán trà và quán cơm. Trong tranh có miêu tả một con ngựa bị hoảng sợ, đang phi thẳng vào trong chợ, tiếng ngựa vừa chạy vừa hí làm kinh động những người đang ngồi uống trà trong quán, mọi người đều ngước nhìn ra bên ngoài…

thanh-minh-thuong-ha-do-5
Nội dung bức họa Thanh minh thượng hà đồ

Trong quyển ba “Đông Kinh Mộng Hoa Lục”, Mạnh Nguyên Lão có viết: "Kinh sư xây vọng hỏa lâu ở trên cao, trên lầu có người quan sát, bên dưới có mấy chục căn nhà quan, còn có quân lính canh giữ ở bên trong, một khi phát hiện hỏa hoạn, lập tức thực hiện chữa cháy. Mà toàn bộ “Thanh minh thượng hà đồ” vẽ con phố dài mười dặm lại không có lấy một vọng hỏa lâu nào cả. Chỉ nhìn thấy có một đài cao được xây bằng gạch, vốn dĩ chính là một vọng hỏa lâu, hiện nay lại biến thành một tọa lượng đình, trở thành nơi yên tĩnh cho mọi người nghỉ ngơi. Hai hàng doanh phòng ở phía dưới biến thành quán ăn, thậm chí ngay đến trạm cứu hỏa ở trong thành cũng bị biến thành “trạm vận chuyển rượu” luôn rồi."

Đi tiếp về phía trước, chúng ta nhìn thấy một kiến trúc giống như nha môn của quan phủ. Ở trước cửa có bảy tám binh sĩ nằm dọc ngang lộn xộn. Bên cạnh họ có hai thùng đựng văn kiện. Xem ra đây là hai đám người ngựa, một đám đi đưa văn kiện, một đám đi bắt người, bây giờ thì nằm ở đây ngủ, nhìn nhau ngơ ngác. Từ đây có thể nhìn ra được hiện trạng nhũng nhiễu tồi tệ của Bắc Tống. Quan viên, binh lính dư thừa dẫn đến tài chính của quốc gia bị cạn kiệt. Bộ máy quan chức của Bắc Tống bành trướng nghiêm trọng, người nhiều hơn việc, binh lính khắp nơi đều là trạng thái nhàn dỗi, vô cùng lười biếng.

Đi tiếp về phía trước, có rất nhiều thuyền vận chuyển lương thực đang đậu trên sông Biện Hà. Có người nói, những chiếc thuyền này cho thấy Biện Kinh thời bấy giờ là chốn sầm uất, phồn hoa. Tuy nhiên những chiếc thuyền này đều là thuyền lương thực của tư nhân, không phải của triều đình. Thật ra vào thời Tống Thái Tông của Bắc Tông có đưa ra quy định, tại khu vực trọng yếu của kinh thành, lương thực phải do triều đình kiểm soát, lương thực của tư nhân không được đưa vào. Mà ở đây lại có rất nhiều thuyền chở lương thực của tư nhân chuẩn bị vận chuyển vào kho dự trữ. Nghe nói về sau, giá lương thực của thành Biện Kinh đã tăng lên gấp bốn lần. Có người hỏi, làm sao biết được Trương Trạch Đoạn vẽ thuyền lương thực của tư nhân hay triều đình? Xin thưa là bởi vì lương thực của triều đình thì chắc chắn phải có quan và binh lính đi theo để canh giữ bảo vệ. Mà ở xung quanh những chiếc thuyền này không có bất cứ một quan viên hay binh lính nào cả.

Nhìn lên phía trước một chút là cây cầu vòm. Chi tiết này dường như đã khắc họa khá rõ nét những mâu thuẫn xã hội thời bấy giờ. Có một chiếc thuyền chở đầy khách, đột nhiên cột buồm sắp đâm vào cầu. Theo lý mà nói, khi cách cầu vòm ở một khoảng cách nhất định, sẽ có người chuyên canh giữ cầu nhắc nhở người trên thuyền dừng kéo buồm và hạ cột buồm xuống, để tránh cột buồm đụng vào thân cầu. Nhưng trong tranh không có người canh giữ trên cầu, vì vậy thuyền phu cứ kéo buồm mà không hay biết là thuyền đã đi sát đến chỗ cầu vòm, đến khi những người trên thuyền phát hiện thì đã muộn.

thanh-minh-thuong-ha-do-2
Hình ảnh cầu và thuyền trong bức Thanh minh thượng hà đồ

Chưa dừng lại ở đó, trên cầu còn nguy hiểm hơn khi có một đám đông chen lấn, hoàn toàn là vì những người buôn bán ở hai bên cầu lấn chiếm đường mà tạo thành, khiến cho cây cầu bị hẹp đi. Ở hai đầu cầu có hai đội quan văn võ đi tới. Những hộ vệ đi cùng bọn họ tranh cãi nhau, không ai nhường ai, tạo thành một cảnh tượng hỗn loạn trên cầu. Các quan viên thì bất lực và không làm tròn chức trách của mình.

Họa sĩ đem những mâu thuẫn của xã hội thời bấy giờ đan xen ở dưới cầu và trên cầu phản ánh vào bức tranh của mình. Ngoài ra, tác giả còn miêu tả sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc trong thời nhà Tống. Những người đói khát và những người nho nhã thanh cao tụ tập bên trong tửu lâu, thuyền phu và những người giàu có ngồi trong kiệu và những quan nhân cưỡi ngựa, hình thành sự đối lập tươi mới. Còn có những cửa tiệm hương liệu cao cấp, các tiệm thuốc cao cấp, và những người nghèo đói khát hình thành sự tương phản mãnh liệt.

Trương Trạch Đoan còn thiết kế một kết cục khiến người ta phải nhìn ngắm kỹ càng ở phần cuối của bức tranh. Đó là ba cảnh tượng hỏi y, hỏi đạo, hỏi mệnh. Đặt câu hỏi ở phần cuối của một bức tranh khổ rộng là thủ pháp thường được các họa sĩ ngày xưa sử dụng. Trương Trạch Đoan dùng tranh của mình để nói lên tiếng lòng của mình: Những rõ ràng đây là vấn đề này của quốc gia, cần phải có người giải quyết chứ một mình ông thì sao giải quyết được gì?

Có người hỏi: Tại sao Trương Trạch Đoan lại vẽ hiện trạng xã hội của triều đình Tống Huy Tông, chẳng lẽ ông không sợ bị xử tội hay sao?

Nhà Tống từ thời Thái Tổ đã thực thi chính sách tuyển dụng quan văn để trị nước, chế định các biện pháp khích lệ văn nhân nói lên suy nghĩ của mình, đặc biệt đưa ra giới luật “không được giết người đưa ra lời khuyên”. Vì vậy, trong thời kỳ Bắc Tống có rất nhiều hình thức lên tiếng, bắt đầu từ hình thức “văn gián” nói lên sự thật qua sách, mở rộng đến các hình thức nghệ thuật như “họa gián”, “nghệ gián” và “thi gián”. Trương Trạch Đoan là một họa sĩ cung đình có tư tưởng Nho giáo ngay từ nhỏ nên ông đã mượn tranh vẽ để nói lên suy nghĩ của mình, thể hiện được trách nhiệm của ông đối với xã hội.

Tống Huy Tông nhìn thấy bức tranh này dù cho khen không ngớt lời, nhưng vì trong bức tranh không có vẻ đẹp hài hòa mà ông muốn nhìn thấy, cho rằng bức tranh này không cát tường. Vì vậy ông đã đích thân đề năm chữ “Thanh minh thượng hà đồ”, và sau khi đóng con dấu song long lên bức tranh, đã đem bức tranh này tặng lại cho họ hàng bên ngoại là Hướng Thị.

“Thanh minh thượng hà đồ” vẫn luôn được Hướng Thị bảo quản trong nhà. Khi quân nhà Kim đánh xuống phía nam, cháu trai của Hướng Thị là Hướng Tử Thiều đóng quân của Hoài Dương cương quyết không đầu hàng, nên cả nhà bị quân Kim giết chết. Bức tranh “Thanh minh thượng hà đồ” ở trong Hướng phủ đã bị rơi vào tay của người Kim. Sau này bức tranh bị luân chuyển vào trong cung rồi lại lưu lạc ngoài dân gian, đến năm 1951 được cất giữ tại Bảo tàng Cố Cung.

thanh-minh-thuong-ha-do-1
Thanh minh thượng hà đồ đã có một thời kỳ "lưu lạc" trước khi tìm được chủ nhân thật sự của nó

Từ dấu vết đóng khung cắt may và phần giải thích về bức tranh cho thấy, “Thanh minh thượng hà đồ” đã mất đi một vài phần bạt văn, nhưng nội dung của tranh thì vẫn hoàn chỉnh.

Thật ra người xưa vào khoảng 800 năm trước đã hiểu được ý nghĩa bức tranh “Thanh minh thượng hà đồ” của Trương Trạch Đoan rồi. Từ nhà Kim, nhà Nguyên, nhà Minh đến nay, tư tưởng Nho giáo của Trương Trạch Đoan nhận được sự khẳng định của các văn nhân học sĩ, điều này có thể nhìn thấy ở trong các bạt văn của các đời sau.

Có thể thấy rằng, Thanh minh thượng hà đồ tựa như một bức Mona Lisa của nghệ thuật hội họa Đông phương. Không chỉ bởi giá trị thẩm mĩ của bức họa mà tác phẩm còn ẩn chứa giá trị nhân văn sâu sắc cần được giải mã về lịch sử vương triều nhà Tống. Những ẩn ý thâm sâu của bức họa được truyền tải khéo léo như là dấu hỏi đang chờ được lí giải. Bức tranh sở hữu những giá trị nghệ thuật cũng như giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Xứng đáng trở thành quốc bảo của Trung Hoa.

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận