Thời kỳ "một cổ hai tròng", nông dân Việt Nam đã khốn khổ khốn cùng đến mức nào?

Có một thời kỳ mà nông dân Việt Nam rơi vào tình cảnh "khốn khổ khốn nạn" bởi thuế khóa, địa tô, phu phen, tạp dịch... và cả nạn cướp đất lập đồn điền, dựng nhà máy của bọn Pháp.

Đỗ Thu Nga
11:00 02/03/2022 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Những chuyển biến về kinh tế

Vào năm 1897, Chính phủ Pháp cử Pôn Đu-me sang làm Toàn quyền Đông Dương để hoàn thiện bộ máy thống trị và tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Nổi bật là chính sách cướp đoạt ruộng đất.

Năm 1897, thực dân Pháp ép triều đình nhà Nguyễn "nhượng" quyền "khai khẩn đất hoang" cho chúng. Ban đầu chúng tập trung khai thác mỏ (than đá, thiếc, kẽm...) ở Hòn Gai, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quảng Nam... Bên cạnh đó, những cơ sở công nghiệp, phụ đời sống như điện nước, bưu điện... cũng lần lượt ra đời.

Chính quyền thuộc địa chú ý đến việc xây dựng hệ thống giao thông, vừa phục vụ công tác khai thác lâu dài, vừa phục vụ mục đích quân sự. Những đoạn đường sắt quan trọng ở Bắc Kỳ và trung Kỳ dần dần được xây dựng. Tính đến năm 1912, tổng chiều dài đường sắt đã làm xong ở Việt Nam là 2 059 km.

Thoi-ky-1-co-2-trong-nong-dan-Viet-Nam-da-khon-kho-the-nao
Tuyến đường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho đầu thế kỷ 20

Đường bộ được mở rộng đến những khu vực hầm mỏ, đồn điền, bến cảng và các vùng biên giới trọng yếu. Nhiều cây cầu lớn được xây dựng như: cầu Long Biên (Hà Nội), cầu Tràng Tiền (Huế), cầu Bình Lợi (Sài Gòn)…

Một số cảng biển, cảng sông cũng được mở mang vào thời gian này như: cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng. Các tuyến đường biển đã vươn ra nhiều nước trên thế giới.

Với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước du nhập vào Việt Nam. Tuy vậy, khi tiến hành khai thác, thực dân Pháp vẫn duy trì phương thức bóc lột phong kiến trong mọi lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội.

Những chuyển biến về xã hội

Những chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp đã kéo theo sự biến đổi rõ nét về mặt xã hội. Một bộ phần nhỏ trong giai cấp địa chủ phong kiến trở nên giàu có. Dựa vào thực dân Pháp, họ ra sức chiếm đoạt ruộng đất của làng xã, của nông dân. Song một số địa chủ vừa và nhỏ bị đế quốc chèn ép, ít nhiều có tinh thần chống Pháp. 

Nông dân Việt Nam khi ấy vốn đã còng lưng gánh thuế khóa, địa tô, phu phen, tạp dịch... lại càng khổ thêm vì nạn cướp đất lập đồn điền, dựng nhà máy của thực dân Pháp. Bình quân ruộng đất vốn đã thấp nay càng thấp hơn.

Ở khu vực Bắc Kỳ có tới 80% số hộ không có ruộng. Mất đất, nông dân phải tìm đường ra các thành phố, đến các công trường, hầm mỏ và đồn điền. Nhưng chỉ có một số ít kiếm được việc làm. Nông dân Việt Nam khi ấy là lực lượng to lớn trong phong trào chống Pháp nhưng do thiếu sự lãnh đạo nên họ chưa phát huy được đủ sức mạnh. 

Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp không chỉ làm phân hóa những giai cấp cũ trong xã hội mà còn làm xuất hiện những lực lượng xã hội mới.

Thoi-ky-1-co-2-trong-nong-dan-Viet-Nam-da-khon-kho-the-nao-7
Nông dân Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc

Trước hết, nền công nghiệp thuộc địa mới hình thành là cơ sở ra đời đội ngũ công nhân Việt Nam. Họ làm việc trong các hầm mỏ, đồn điền, các xí nghiệp công nghiệp, công trường, các ngành giao thông.

Nhà máy xi măng Hải Phòng đã có 1.800 công nhân, các nhà máy xay xát gạo ở Sài Gòn cũng có tới 3.000 công nhân. Riêng ngành than, năm 1904 mới có 4.000 công nhân, đến năm 1914 đã có 15.000 công nhân; xưởng đóng tàu Ba Son (Sài Gòn), nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh) cũng có đến 1.000 công nhân có tay nghề.

Lực lượng công nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX còn non trẻ, mục tiêu đấu tranh chủ yếu vì quyền lợi kinh tế như tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện đời sống, điều kiện việc làm. Ngoài ra, họ hưởng ứng các phong trào chống Pháp do tầng lớp khác lãnh đạo.

Trong quá trình khai thác thuộc địa, thực dân Pháp cần có những người làm trung gian, đại lý tiêu thụ hoặc thu mua hàng hóa, cung ứng nguyên vật liệu. Nhờ buôn bán họ trở nên giàu có. Ngoài ra một số sĩ phu yêu nước, chịu ảnh hưởng của tư tưởng tư sản Trung Quốc, Nhật Bản, đã đứng ra lập các hiệu buôn, cơ sở sản xuất. Đó chính là những lớp người đầu tiên của tư sản Việt Nam.

Cũng trong thời kì này xuất hiện tầng lớp tiểu tư sản thành thị. Thành phần của họ khá phức tạp, gồm những tiểu thương, tiểu chủ sản xuất và buôn bán hàng thủ công. Số viên chức làm việc trong các công sở hoặc cơ sở tư nhân như nhà báo, nhà giáo, học sinh, sinh viên….cũng là một lực lượng quan trọng thuộc tầng lớp này.

Như vậy, cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp làm nảy sinh những lực lượng xã hội mới. Sự biến đổi này đã tạo ra những điều kiện bên trong cho vận động giải phóng dân tộc theo xu hướng mới ở đầu thế kỉ XX.

(Theo Soha)

Xem thêm: Sự thật ít biết về "cuộc chiến âm thanh" hai bên bờ sông Bến Hải thời kháng chiến chống Mỹ

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận