Chân dung liệt nữ nước Việt đầu thế kỷ XX được mệnh danh là "Bà Triệu trẻ"

"Bà Triệu trẻ" của nước Việt ở thế kỷ XX là một liệt nữ cách mạng trong Duy Tân hội và Phong trào Đông du. 

Đỗ Thu Nga
09:00 04/03/2022 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Theo nhiều tài liệu, "Bà Triệu trẻ" tên thật là Lê Thị Đàn (? - 1910). Thời đó, người ta còn gọi bà là Ấu Triệu. Bà là người làng Thế Lại Thượng, nay thuộc xã Hương Vinh, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Bà sinh trưởng trong gia đình theo Nho giáo, lại được đi học đến nơi đến chốn nên nổi tiếng là người con gái nết na đức hạnh, biết làm thơ văn. Đến tuổi trưởng thành, bất ngờ gia đình lâm cảnh chẳng lành: mẹ mất sớm, các em nhỏ dại, cha bị thực dân Pháp bắt giam, gia sản bị tịch thu vì trước kia ông có liên quan đến phong trào Cần Vương.

Vừa lúc đó có người tên Hinh, nguyên là Đốc phủ sứ ở miền Nam, đang làm thông ngôn ở tòa Khâm sứ Trung Kỳ, ra điều kiện nếu bà chịu làm vợ ông, thì ông sẽ xin tha cho cha bà và bà đã đồng ý.

Sau một thời gian ngắn, ông Hinh về Sài Gòn còn bà Lê Thị Đàn vịn cớ cha già, em thơ nên không đi theo. Bà ở lại mua bán ngược xuôi một thời gian rồi mở quán bán trà rượu để nuôi cha, nuôi em. 

Gàn nhà bà có ông Võ Bá Hạp, một nhà nho có khí tiết, bạn thân của ông Phan Bội Châu. Bởi vậy, qua lời giới thiệu của ông Hạp, bà Lê Thị Đàn được ông Phan kết nạp vào Duy Tân hội (thành lập năm 1904)( và được phân công làm công tác liên lạc. 

Từ đó, trong 4 năm năm, trải qua bao hiểm nguy, gian khổ trên tuyến đường miền Trung và bắc, mọi việc của hội như chuyển tài liệu, tiền bạc, đưa rước người trong phong trào Đông du đều nhờ tay bà Đàn. 

Năm Mậu Thân (1908), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ nổ ra, Lê Thị Đàn đã cùng đồng đội là Khóa Mãnh, Khóa Mộng, nhiệt tình hưởng ứng. Tiếp đến, trong kỳ thi khóa sinh ở huyện Hương Trà, chính bà và ông Nguyễn Đình Tiến đã cổ vũ cho thí sinh bỏ trường thi để phản đối nhà cầm quyền.

Khi hoạt động đang khá thuận lợi thì Nhật Bản ký hiệp ước với Pháp, các nhà cách mạng trong đó có Phan Bội Châu cùng các du học sinh Việt phải rời khỏi Nhật Bản vào năm 1909. Đồng thời ở trong nước Việt, Pháp cũng ra sức đàn áp các thành phần chống đối, khiến nhiều người bị tù đày, bị chém hoặc phải tự sát.

Trong số đó có ông Đặng Thái Thân, một đồng đội năng động, thân thiết của bà Đàn ở Nghệ An vừa mới tuẫn tiết (dùng súng tự sát), khiến bà Đàn càng thêm căm phẫn, đau xót.

Liet-nu-nuoc-Viet-nao-duoc-menh-danh-la-Ba-Trieu-tre
Bia cô Ấu Triệu liệt nữ

Không thể kìm nén được nữa, bà Lê Thị Đàn ngang nhiên chửi rủa đối phương nên bị bắt vào tháng 3/1910. Thượng thư bộ Hình triều Nguyễn và cũng là cộng sự đắc lực của Pháp là Trương Như Cương, được giao nhiệm vụ xét hỏi.

Mặc mọi lời dụ dỗ, mọi cực hình tra tấn, trước sau bà Đàn vẫn không khai báo. Biết mình không thể thoát và không thể sống được nữa, bà giở vờ khai hết, nếu được Trương Như Cương cho ngơi nghỉ một ngày... 

Tin lời, Thượng thư Cương chấp thuận và ngay đêm hôm ấy, bà đã cắn ngón tay lấy máu viết lên tường ba bài thơ tuyệt mệnh, rồi dùng dây thắt lưng bằng lụa trắng treo cổ, tự kết liễu đời mình tại nhà lao Quảng Trị.

Hôm ấy là ngày 16 tháng 3 âm lịch năm Canh Tuất, tức ngày 25 tháng 4 năm 1910, Phan Bội Châu lấy tấm gương bất khuất của nữ nhân vật Triệu Thị Trinh trong lịch sử Việt Nam mà đặt cho Lê Thị Đàn là Ấu Triệu, với nghĩa Bà Triệu Nhỏ.

Và sau 98 năm kể từ ngày tuẫn tiễn, sau hơn 30 năm tìm kiếm mộ bà bởi các cấp chính quyền, vào một ngày đầu đông năm 2008, di hài liệt nữ Ấu Triệu đã được nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Ngọc Lan ở Hải Phòng tìm thấy.

Sáng ngày 26/11/2008, di hài của bà đã được đưa về cải táng tại nghĩa trang mang tên Phan Bội Châu do chính cụ Phan thành lập trước năm 1934 tại Huế, để làm nơi an táng các chí sĩ cách mạng.

Cảm động trước việc làm của nhà ngoại cảm, cháu Cụ Lê Thị Đàn có làm bài thơ sau:

Tìm mộ bà xa thật là xa

Lòng con mong ước từ bao giò

Nay đến tận nhà tù Lao Bảo

Hun hút trời mây bà ở mô?

Mông lung hiu quạnh chốn lao tù

Sập nát chỉ còn sắt lửng lơ

Anh dũng tượng đài tay xiềng xích

Hiên ngang,sừng sững chẳng phai mờ

Thật là kỳ diệu tưởng như mơ

Bãi cỏ bằng ngang trước nhà tù

Ngọc Lan tay cầm bó nhang đỏ

Cắm liền xuống vạt cỏ chơ vơ

Ngờ đâu sự thật được diễn ra

Đào xuống năm tấc mới rõ là

Viên gạch nằm ngay trên ngực Cụ

Chắc ai làm dấu khi chôn Bà?!

Hiện trường rõ thật quá đi thôi

Chớp ảnh,quay phim cũng nhiều rồi

Thi hài bà được bốc cẩn thận

Đưa về quê Mẹ chọn niềm vui.

Do đảm đương công tác bí mật, nên công lao và sự hy sinh của Lê Thị Đàn dưới thời Pháp thuộc ít được biết đến. Sau này, nhờ Phan Bội Châu kể lại vụ việc trong cuốn Việt Nam nghĩa liệt sĩ, nên tên tuổi bà mới được lưu truyền.

Tiếp theo là vào năm 1926, khi Phan Bội Châu bị Pháp đưa về sống ở Bến Ngự (Huế) (địa chỉ hiện nay: 119, Phan Bội Châu, TP. Huế), ngay năm sau, ông đã dựng lên một ngôi miếu nhỏ nơi góc vườn của mình. Ngôi miếu có khắc bốn chữ Hán "Ấu Triệu bi đình" và một tấm bia có khắc mấy dòng chữ Hán ở mặt trước và bản dịch bằng chữ quốc ngữ ở mặt sau, để làm nơi hương khói cho bà.

Xem thêm: Lá thư "thiêng" từ Thành cổ Quảng Trị anh hùng

Sống Đẹp
songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận