Sa môn là gì? Ý nghĩa của sa môn
Sa môn có nghĩa là chỉ tất cả những vị tăng tu hành theo đạo Phật, còn có nghĩa là người nghèo (Bần giả), người chuyên cần (Cần giả), người đoạn dứt (Tức giả).
Sa môn là gì?
Sa môn (tiếng Phạn: Sramana) có nghĩa là "dứt diệt tham sân si, tu Giới Định Huệ", là từ ám chỉ những người đi tu tập phép thiện để dẹp hết tính ác. Ban đầu từ này được dùng như một danh từ để chỉ những vị du tăng tu khổ hạnh, sau này được sử dụng để chỉ tất cả những vị tăng tu hành theo đạo Phật.
Theo quyển Hán Việt Tân Tự Điển (còn được biết đến là Từ điển Nguyễn Quốc Hùng), sa môn là từ chỉ những người xuất gia tu hành, tu tập theo đạo Phật, tức thầy chùa.
Theo truyền thông Phật giáo, sa môn là danh xưng của những người xuất gia, tu tập thiền định, hướng tới Niết bàn. Trước kia, sa môn dùng để chỉ những vị đạo sĩ sống đời xuất thế (Bà la môn) tại Ấn Độ cổ đại. Sau này, những đệ tử xuất gia của Đức Phật cũng được gọi là Sa Môn, nhưng một số nơi gọi là Sa môn Thích tử để phân biệt (tức Sa môn đệ tử của Phật Thích Ca). Người trong thiên hạ dù là xuất thân từ những dòng tộc, giai cấp khác nhau,... nhưng một khi đã xuất gia quy Phật thì sẽ rũ bỏ mọi khác biệt, trở thành Sa môn, chung một mục tiêu duy nhất là tu tập dưỡng tâm, hướng tới giải thoát, đạt được Niết bàn.
Sa môn là từ để chỉ những vị xuất gia tu tập theo giáo pháp nhà Phật, hoặc là những vị đã đoạn tiệt mọi tâm thức nhiễm ô, giác ngộ, hoặc là các vị đang nỗ lực diệt trừ tâm thức nhiễm ô, hướng tới giác ngộ theo phương pháp Giới Định Tuệ.
Tứ chủng Sa môn
Theo Phật học Từ điển của học giả Đoàn Trung Còn, tứ chủng Sa môn là 4 hạng đệ tử xuất gia trong Tăng đoàn, bao gồm Thắng đạo Sa môn, Thị đạo Sa môn, Mạng đạo Sa môn và Ô đạo Sa môn. Trong Kinh Tăng Chi, sau bữa ăn cuối cùng của người thợ rèn Thuần Đà (Cunda) cúng dường trước khi Phật nhập diệt, người này có hỏi Phật rằng có mấy loại sa môn. Phật trả lời rằng có 4 loại sa môn như trên.
Thắng đạo Sa môn là hạng sa môn trội thắng hơn cả về đạo lý. Như Phật và Duyên giác là bậc tự mình xuất gia, giác ngộ. Đức Phật xuất gia làm Sa môn, diệt trừ mọi phiền não, đắc đạo lý hơn tất thảy, nên gọi là Thắng đạo Sa môn. Đây cũng là những bậc Thánh ngộ đạo, đã chứng quả A la hán.
Thị đạo Sa môn là hạng sa môn đem đạo lý chỉ bảo cho người khác, chẳng hạn như Xá Lợi Phất từng đi thuyết pháp dạy đạo. Ngoài ra, Thị đạo sa môn cũng được gọi là Thuyết đạo Sa môn (những Sa môn có thể thuyết đạo cho người nghe tu tập, khiến chung sánh vào Phật đạo). Thuyết đạo sa môn là những bậc Thánh hữu học, dù chưa chứng quả A la hán nhưng đã hiểu rõ, chính xác nội dung giáo lý nhà Phật, giảng thuyết cho chúng sinh nghe.
Mạng đạo Sa môn là những sa môn có thể giữ chánh mạng. Cũng có nơi gọi là Hoạt đạo Sa môn, tức là những sa môn sống một đời vì đạo, có thể điều phục phiền não, tinh tiến tu tập chánh pháp, có thể dưỡng mạng căn trí huệ của mình. Hoạt đạo sa môn là những người phàm phu, chưa xuất gia, chưa được khai ngộ, tuy nhiên vẫn sống đúng theo giới luật, nỗ lực tu tập, học đạo.
Ô đạo Sa môn (Ố đạo Sa môn) là hạng sa môn làm ô uế đạo lý, không tu tâm dưỡng tính. Ô đạo sa môn còn được coi là Hoại đạo Sa môn, là những sa môn dù đã xuất gia nhưng không giữ giới luật, lười biếng, làm hư đạo, phá giới, ảnh hưởng đến thanh danh nhà Phật.
Theo Phật giáo nguyên thủy, sa môn còn mang nghĩa là chỉ những tu sĩ đã đạt được quả Thánh đầu trong bốn quả Thánh, tức đạt được Sơ quả (Tu Đà Hoàn - tiếng Phạn là Sotapanna). Trong bốn quả Thánh của Phật giáo nguyên thủy, quả Thánh đầu tức Tu Đà Hoàn được gọi là sa môn (nghĩa hẹp). Các quả thành theo gọi theo thức bậc là thứ hai, thứ ba, thứ tư.
Sa môn thứ hai (Đệ nhị sa môn), có tên gọi khác là Nhất lai, chỉ tu sĩ đã đoạn trừ ba kiết sử, giảm nhẹ tham và sân. Nhất lai nghĩa là vị này chỉ cần trở lại Dục giới một lần nữa, sau đó chứng nhập Niết bàn. Sa môn thứ ba (Đệ tam sa môn) còn gọi là Bất Lai, là vị tu sĩ đã đoạn năm hạ phần kiết sử, tức là không còn phải trở lại Dục giới, sau khi tái sinh sẽ chứng nhập Niết bàn.
Sa môn thứ tư (Đệ tứ Sa môn) là tên gọi khác của A la hán, là những bậc Thánh đã đoạn trừ hết đau khổ phiền não, tự mình thắng trí, được giải thoát, chứng nhập Niết bàn.
(Kiết sử hay còn gọi là kết sử (saṃyojana, saññojana), là thuật ngữ ám chỉ những phiền não tồn tại trong tâm trí con người, là những chướng ngại khiến con người liên tục sa vào cõi luân hồi. không thể giải thoát. Theo quan điềm nhà Phật, cần tiêu trừ những kiết sử này thì con người mới có thể nhập Niết bàn.
Tùy theo các kinh điển Phật giáo, phân loại và số lượng các kiết sử khác nhau, có thể phân ra là nhị kết, tam kết, tứ kết, ngũ kết, cửu kết và thập kết. Mười kiết sử mà con người có là: Thân kiến, Hoài nghi, Giới cấm thủ, Tham đắm cõi dục, Sân hận, Tham đắm cõi sắc, Tham đắm cõi vô sắc, Mạn, Trạo cử vi tế, Si vi tế).
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, khi nói về các hạng sa môn có đoạn:
“Này các Tỷ-kheo, bốn hạng Sa môn này có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn? Sa môn bất động, Sa môn sen trắng, Sa môn sen hồng, Sa môn tinh luyện.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa môn bất động? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn bị đọa lạc, quyết chắc hướng đến giác ngộ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa môn bất động.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa môn sen trắng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi đoạn diệt ba kiết sử, làm cho nhẹ bớt tham, sân, si, là bậc Nhất lai, chỉ có một lần trở lui đời này rồi chấm dứt khổ đau. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa môn sen trắng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa môn sen hồng? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, là vị Bất lai, từ đấy nhập Niết-bàn, không phải trở lui từ thế giới ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa môn sen hồng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng Sa môn tinh luyện giữa các Sa-môn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, do đoạn tận các lậu hoặc, Tỷ- kheo ngay trong hiện tại với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hạng Sa môn tinh luyện giữa các Sa môn.
Này các Tỷ-kheo, bốn hạng Sa môn này có mặt, xuất hiện ở đời”...
Ý nghĩa của Sa môn
Sa môn có nghĩa là người nghèo (Bần giả), người chuyên cần (Cần giả), người đoạn dứt (Tức giả). Bần giả là người chịu sống an phận nghèo khổ để vui đạo, Cần giả là người chuyên cần tu Giới Định Huệ, Tức giả là người dứt trừ tham, sân, si.
Người nghèo
Người nghèo, tức Bần giả là thứ mà mọi người tu đều phải có trước tiên. An trong phân nghèo để vui đạo là phẩm cách thanh cao của người xuất gia, nếu như không có thì không thể có niềm vui trong đạo.
Yên phận nghèo là biết đủ với những cái đã có, ít muốn cái chưa có, còn gọi là "Ít muốn biết đủ". Biết đủ với ba chiếc y, vài quyển kinh, một chiếc xe để di chuyển, có kính để xem kinh,... Phải giữ tâm biết đủ thì mới không còn nhìn ngó, than trách; không còn ganh tị với người khác, không còn khởi tâm tham muốn. Người không biết đủ sẽ khó mà an tâm, mỗi khi nghe tiếng hay gặp sắc là tâm rối động, không thể ở yên một chỗ.
Đức Thế Tôn từ một vị ở vị thế vinh hoa tột đỉnh, đã vứt bỏ tất cả để làm ẩn sĩ sống một mình trong rừng núi hoang vắng. Vua Trần Nhân Tông cũng cởi bỏ hết tất cả ngôi vị, ngai vàng,... mà thảnh thơi thoát tục, tu hành...
Người xuất gia là người chỉ đường soi sáng cho chúng sinh, soi rọi đèn Bát nhã cho ba cõi, phải thấy được giá trị của "người nghèo", như vậy mới có thể làm đúng, hành trì thật tốt và thật sự có lợi ích. Người xưa có câu: "Việc của người xuất gia không phải quan văn hay võ tướng có thể làm được", khó có thể so sánh với việc làm của người xuất gia, là bậc chiến thắng chính bản thân mình, dù đang ở địa vị nào cũng không bị tám thứ khổ hành hạ, chi phối.
Thấy rõ bản chất của người xuất gia thì mới bỏ được ngạo mạn và kiêu hãnh. Buông bỏ hết tất cả chính là bản chất cao thượng của người tu hành. Sau khi thành tựu được bước ban đầu là Bần giả, tức an phận với cái nghèo, vui với đạo thì mới có thể đạt được thành tựu thứ hai, thứ ba.
Người chuyên cần
Người chuyên cần (Cần giả) là những người siêng năng lúc nào cũng chuyên tâm trong Giới - Định - Tuệ. Giới - Định - Tuệ là cánh cửa giải thoát muôn đời, là cánh cửa cho tất cả Hiền Thánh. Nghe pháp là nhiếp về Tuệ học, tĩnh tọa niệm Phật là nhiếp về Định học và tụng oai nghi giới luật, thu nhiếp sáu căn là nhiếp về Giới học. Từ Giới học, Định học, Tuệ học mà sinh ra pháp thuân huệ mạng của người tu hành.
Khi đã thọ giới thì mỗi ngày đều phải tụng đọc mười giới Sa-di để giữ gìn. Nếu đã thấu triệt thì sẽ thấy trong Giới có Định, Tuệ và ngược lại. Thân mạng bằng da thịt chỉ là túi thịt tạm bợ, còn Pháp thân huệ mạng mới là thứ chân thật, muôn đời không hề biến đổi.
Người đoạt dứt
Người đoạn giứt (Tức giả) là thành tựu, điều kiện thứ ba mà người tu phải đạt được, là chấm dứt tham - sân - si. Đức Phật dạy người tu hành phải dùng Giới - Định - tuệ mà phá vỡ tham, sân, si, như vậy mới vượt ra khỏi ba cõi.
Trước hết, Đức Phật chỉ cho người ta thấy được nguyên nhân của đau khổ, phiền não. Sau đó, Ngài chỉ bày những phương pháp đập tan phiền não, đoạn trừ gốc rễ của nó. Luật Thiện Kiến có câu: "Lành thay! Bậc trượng phu biết rõ cuộc đời vô thường, xả tục hướng đến Niết-bàn thật là người hiếm có khó nghĩ bàn được"...
Bậc Tỳ-kheo còn có 3 ý nghĩa khác là Khất sĩ, Bố ma và Phá ác
Khất sĩ là những người trên cầu chánh pháp, nhờ cúng dường thực phẩm để giáo hóa chúng sinh.
Bố ma là người làm cho ma quân khiếp sợ, là người tu hành thanh tịnh, có định lực, đạo lực, tuệ lực khiến ma quân kính nể.
Phá ác là phá trừ những nghiệp ác, để chỗ thành chí thiện. Khi ngồi dưới gốc bồ đề tu đạo, Thái tử Tất đạt đa phát nguyện rằng dù cho có thịt nát xương tan cũng phải gắng sức đạt tới chỗ phải đạt đến, và sau cùng Ngài đã đạt được Phật quả. Nếu hạ quyết tâm, nỗ lực, ta có thể hoàn thành được mục đích của việc xuất gia là thành tựu phẩm hạnh.
Thái tử Tất đạt đa lại phát nguyện: "Nếu nơi này ta không đắc đạo dù cho xương tan thịt nát cũng không lìa khỏi chỗ ngồi này. Nếu thực đúng như lời của Ta, thì khi quăng bình bát xuống nước, hãy trôi ngược trở về". Có thể hiểu rằng, hình ảnh chiếc bát trôi ngược cùng hình ảnh Thái tử ngồi dưới cội bồ đề tu đạo đã minh chứng cho thế hệ xuất gia sau này về một ý chí kiên định, quyết tâm tu hành giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Do đó, những bậc Cao Tăng sau này đều là những người nhẫn nhịn, quyết tâm, chấp nhận hi sinh thân mạng đề tìm cầu chánh pháp, đem lại lợi lạc cho chúng sinh.
Xuất gia không phải là để tìm nơi nhẹ nhàng thoải mái, cũng chẳng phải để có đông bạn bè, hay có tràng đạo lớn nổi tiếng. Mỗi ngày khi ta tu tập ở đạo tràng như những gì đức Phật đã chỉ dạy, thì phước đức, nhân duyên và phước báo to lớn là không thể bàn. Một người đã phát tâm xuất gia chân chính, có chí nguyện rộng lớn thì có thể làm chấn động tất thảy Tam giới. Như vậy thể hiện rằng có một vị tu hành có trí tuệ siêu việt, có thể làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh ba cõi sẽ xuất hiện ở cõi người.
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận