Gia đình Giáo sư Đặng Vũ Khiêu - Nơi tri thức vun bồi, đạo nghĩa đơm hoa
Gia đình Giáo sư Đặng Vũ Khiêu là một trong những gia đình nho học tiêu biểu của Việt Nam, nổi bật với truyền thống hiếu học, trọng đạo lý và gắn bó sâu sắc với văn hóa dân tộc. Với tâm niệm “trí thức phải đi liền với đạo đức”, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu và gia đình đã âm thầm vun đắp nên những thế hệ sống tử tế, có ích cho cộng đồng và không ngừng gìn giữ cốt cách văn hóa Việt.
Bài viết này thuộc series Truyền cảm hứng
"Truyền cảm hứng" nơi tôn vinh những câu chuyện đẹp, những con người sống tử tế và đầy nghị lực, lan tỏa năng lượng tích cực đến cộng đồng.
Giáo sư Đặng Vũ Khiêu – Một trí tuệ và tài hoa hiếm biệt
Giáo sư Đặng Vũ Khiêu sinh ngày 19/9/1916 tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Xuất thân từ cái nôi của nhiều dòng họ khoa bảng, gia đình ông cũng nhiều đời gắn bó với chữ nghĩa nho gia, vì thế mà tử nhỏ ông đã được học thuộc lòng “tứ thư”, “ngũ kinh” từ người ông nội có tư tưởng kháng Pháp từ quan về làng mở trường dạy học. Cũng bởi vì thế mà ông được người đương thời tôn xưng là “nhà nho cuối cùng” của Việt Nam.
Ông tốt nghiệp tú tài ở trường trường Bonnal, Hải Phòng đến năm 1935 thì về Hà Nội dạy học và đi theo cách mạng, hoạt động trên nhiều lĩnh vực như công tác Đảng, dân vận, chính quyền, quân đội, đối ngoại,… Giáo sư Vũ Khiêu từng đảm nhiệm nhiều chức vụ như Giám đốc Sở Văn hoá khu 10 tại Việt Bắc, Phó Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học xã hội... Ông cũng là người xây dựng, tổ chức bộ phận Mỹ học đầu tiên ở Việt Nam và là viện trưởng đầu tiên của Viện Xã hội

Không chỉ là một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu còn là một học giả nghiên cứu văn hóa Việt Nam, là người đặt nền móng cho sự phát triển của ngành khoa học xã hội nước nhà. Ông là bậc thầy của bậc thầy, không chỉ ở thâm niên giảng dạy mà còn ở chất lượng đào tạo qua bao lứa học trò xuất sắc.
Dành trọn cuộc đời cho sự nghiệp nghiên cứu, Giáo sư Vũ Khiêu đã xuất bản hàng trăm tác phẩm có giá trị trên nhiều lĩnh vực như triết học, giáo dục, kinh tế, tôn giáo, trang phục, lễ hội, công trình văn hóa, truyện kể dân gian,… Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến là: Hương trầm (phú, 1946), Du Nguyệt điện (kịch thơ, 1946), Đẹp (chuyên luận văn hóa, 1963), Cao Bá Quát (nghiên cứu, 1970), Anh hùng và nghệ sĩ (chuyên luận văn hóa, 1972), Cách mạng và nghệ thuật (chuyên luận văn hóa, 1979), Nguyễn Trãi (nghiên cứu, 1980), Con người mới Việt Nam và sứ mệnh vinh quang của Văn nghệ (chuyên luận 1986), Bàn về văn hiến Việt Nam (3 tập, 2000)…

Đóng góp ở nhiều phương diện như vậy nhưng với Giáo sư Đặng Vũ Khiêu điều ông tâm đắc và dành nhiều tâm sức nhất là xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trưởng thành và phát triển từ môi trường triết học nên những công trình nghiên cứu của ông đa phần tập trung ở hệ thống tư tưởng và lý luận văn hóa. Chính những công trình nghiên cứu này đã góp phần rất lớn khi chỉ ra vài trò, vị trí của văn hóa Việt Nam trong nền văn hóa khu vực Đông Nam Á và phương Đông.
“Đây là điều không phải ai cũng làm được bởi khi nghiên cứu về lý luận văn hoá, phải đi tìm nền tảng tư tưởng, để làm nên văn hoá đó, không phải biểu hiện qua hành vi giao tiếp, trang phục,…Những cuốn sách của Giáo sư Vũ Khiêu chú trọng nghiên cứu đường lối, tư tưởng phát triển văn hoá Việt Nam để xây dựng nền tảng đủ vững để triển khai chính sách của Đảng và Nhà nước qua thực tiễn được hiệu quả. Đây là những đóng góp rất lớn và quan trọng”, nhà nghiên cứu Ngô Hương Giang, Giám đốc không gian văn hóa Phạm Văn Đồng từng nhận định.

Tình yêu văn hóa dân tộc của vị Giáo sư đáng kính này không chỉ thể hiện ở những công trình nghiên cứu đồ sộ mà còn thấm đẫm trong những áng văn cổ, những câu đối, văn tế văn bia…. Những án văn của ông được đánh giá là đạt đến độ tuyệt hảo của trí lực và thần thái. Và có một điểm rất đặc biệt ở Đặng Vũ Khiêu đó là dù rất thông thạo Hán Nôm, nhưng khi viết câu đối ông lại ưu tiên dùng tiếng Việt, xem nó như một cách thể hiện, phát triển quốc ngữ.
Cũng vì thế mà nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Việt Nam đã không ngớt lời tán dương rằng: “Đọc Vũ Khiêu, thấy tiếng Việt thật trù phú và đẹp làm sao! Cùng Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng và những văn sĩ tài danh khác, ông là một trong các nhà văn đã góp phần làm giàu, đẹp thêm tiếng Việt”.

Đối với những ai từng tiếp xúc hoặc tìm hiểu về Giáo sư Vũ Khiêu đều biết rằng với ông “tri thức là nguồn cội của văn hóa, văn hóa là linh hồn của dân tộc”. Ông xem đó là lẽ sống, là mục tiêu phấn đấu cả đời. Không phải ngẫu nhiên mà trong phòng làm việc ở nhà của ông có treo chữ “Tri” ở vị trí trang trọng nhất, ở dưới đề câu nói của Khổng Tử: “Sinh nhi Tri, học nhi Tri, khốn nhi Tri” (con người sinh ra là để có tri thức, học hành cũng là vì cần có tri thức, rồi khốn khổ cũng là vì tri thức). Giáo sư Vũ Khiêu từng chia sẻ, ông trêu chữ “Tri” trong nhà với tâm nguyện chấp mọi khó khăn để vươn lên cùng với tri thức. Lấy tri thức làm lẽ sống nên niềm vui cả đời của vị giáo sư đáng kính này chính là cống hiến học vấn, trí tuệ, tài năng sáng tạo cho đất nước, cho cuộc đời.
Trong buổi lễ mừng thượng thọ 98 tuổi được tổ chức tại Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch năm 2013, Giáo sư Vũ Khiêu từng hào hứng chia sẻ: "Trước sự tin yêu của Đảng và Nhà nước, trước tình cảm của lãnh đạo Hà Nội vinh danh tôi là Công dân ưu tú số 1 của Thủ đô, trước sự cổ vũ của bạn bè hôm nay, tôi lại xin bắt tay thực hiện một kế hoạch 5 năm nữa và hoàn thành vào năm tôi được 103 tuổi. Sự tính toán đó là của tôi. Còn sống chết là việc của trời. Tôi chỉ biết hứa với bạn yêu quý của tôi là còn sống năm tháng nào thì làm việc hết năm tháng đó".

Ở tuổi xế chiều, khi đã bước qua ngưỡng trăm năm của đời người, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu vẫn tiếp tục cống hiến cho công việc, cho lý tưởng của đời mình. Ông miệt mài trong những chuyến đi khắp Bắc – Nam, miệt mài viết, dịch và nghiên cứu học thuật. Với tinh thần lao động phi thường, bất chấp tuổi tác và thời gian, ông hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch Hội đồng biên soạn bộ Tổng tập “Ngàn năm văn hiến Thăng Long” gồm 4 tập đồ sộ. Không dừng lại ở đó, ông còn tham gia biên soạn Bách khoa thư Hà Nội, trực tiếp thực hiện công trình “Lịch sử khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hà Nội”, đồng thời giữ vị trí Chủ tịch Hội đồng tư vấn khoa học cho bộ sử “Ngàn năm Thăng Long” với quy mô hơn 100 cuốn sách.
Chính sự lao động hăng say và phi thường ấy đã khiến nhiều người tự đặt câu hỏi, điều gì đã giúp ông có thể vượt qua giới hạn về thể chất, thời gian và tuổi tác như vậy. Có lẽ chính là một tình yêu lớn dành cho chữ nghĩa văn chương, cho văn hóa dân tộc. Cuộc đời cống hiến đầy sáng tạo và sự nghiệp vinh quang của Giáo sư Đặng Vũ Khiêu là một tấm gương lớn, truyền cảm hứng mạnh mẽ về lòng yêu nước, yêu văn hóa dân tộc, tinh thần trách nhiệm và niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Với những đóng góp to lớn, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu đã được Đảng và Nhà nước trao tặng cho rất nhiều danh hiệu cao quý như: Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ đợt 1 năm 1996, Anh hùng Lao động thời đổi mới năm 2000, Huân chương Độc lập hạng nhất, Công dân Ưu tú Thủ đô.
Ngày 30/9/2021, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu qua đời ở tuổi 105 tại Hà Nội.
Lịch sử dân tộc là dòng chảy liên tục, nơi mỗi thế kỷ đều được bồi đắp bởi những dấu ấn sự kiện và những con người kiệt xuất. Trong thời đại Hồ Chí Minh, Giáo sư Vũ Khiêu hiện lên như một bậc đại trí thức tiêu biểu, một hiền tài sống giữa đời thường với trí tuệ uyên bác, tâm hồn phong phú, nhân cách thanh cao và trái tim chan chứa tình người.
Gia đình Giáo sư Đặng Vũ Khiêu – Nơi mạch nguồn trí thức tuôn chảy
Gia đình Giáo sư Đặng Vũ Khiêu là một trong những biểu tượng tiêu biểu của truyền thống nho học và tinh thần hiếu học Việt Nam. Dưới mái nhà ấy, mạch nguồn trí thức không ngừng tuôn chảy qua từng thế hệ, hun đúc nên những con người sống tử tế, trọng nghĩa lý, và cống hiến âm thầm cho đất nước. Không chỉ là nơi lưu giữ ký ức văn hóa, gia đình Giáo sư Vũ Khiêu còn là minh chứng sống động cho sức bền của trí tuệ Việt và giá trị trường tồn của học vấn gắn liền với đạo làm người.
Năm 1939, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu lấy bà Nguyễn Thị Quý (1918-1994) là người cùng làng. Cả hai có với nhau 4 người con, ai cũng tài hoa xuất chúng, để lại dấu ấn ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Người con gái đầu tên là Đặng Thị Quỳnh Khanh, một cử nhân ngành sử học. Trước bà Quỳnh công tác ở thư viện, hiện tại bà đã nghỉ hưu và có những ngày tháng an nhàn bên con cháu.
Người con trai thứ hai là ông Đặng Vũ Cảnh Khanh là một giáo sư, tiến sĩ ngành Xã hội học. Hiện ông đang là Viện trưởng Viện nghiên cứu truyền thống và phát triển và là trưởng khoa Khoa Xã hội Nhân Văn của Đại học Thăng Long. Trước đó, ông từng giữ chức Viện trưởng Viện nghiên cứu Thanh niên, Phó giám đốc Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam. Giáo sư Đặng Vũ Cảnh Khanh là một con người tài hoa, ngoài sự nghiệp nghiên cứu nổi bật, ông còn chơi đàn piano, vẽ tranh, viết thư pháp, viết văn bia, câu đối.
Người con gái thứ ba là bà Đặng Vũ Hạ, một kỹ sư vô tuyến điện.
Người con gái út là họa sĩ Đặng Vũ Hoa Thạch.
Ngoài 4 người con ruột, nhắc đến gia đình Giáo sư Đặng Vũ Khiêu, người ta không thể không nhắc đến cô con dâu Lê Thị Quý, vợ của Giáo sư Đặng Vũ Cảnh Khanh. Bà Quý cũng là một Giáo sư, Tiến sĩ, nhà nghiên cứu đầu ngành về giới và gia đình, nổi tiếng với những cuốn sách bình đẳng giới, phong trào nữ quyền. Dù đã về hưu nhưng GS.TS Lê Thị Quỹ vẫn miệt mài lao động theo gương của người cha chồng quá cố. Hiện bà đang là Viện trưởng Viện nghiên cứu giới và phát triển, thành viên của nhóm chuyên gia tư vấn các vấn đề giới và gia đình cho Quốc hội.

Nói về không khí học thuật trong gia đình, Giáo sư Lê Thị Quý từng chia sẻ: Ngày mới về làm dâu bà rất ngạc nhiên và cũng rất thích không khí học thuật mà bố chồng – Giáo sư Vũ Khiêu luôn tạo ra và mang về gia đình. Cụ sống bình dị nhưng lại rất quảng giao. Cụ kết bạn và chơi thân với nhiều bậc văn hóa, trí thức nổi tiếng ngày trước như nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, nhà thơ Hoàng Trung Thông, họa sĩ Văn Sáng, họa sĩ Mai Văn Hiến, họa sĩ Trọng Kiệm, nhà điêu khắc Diệp Minh Châu, đạo diễn cải lương Chi Lăng… Có thời cụ còn viết chung cả kịch với nhà thơ Lưu Trọng Lư. Trong giới khoa học, cụ là bạn tâm giao với GS Trần Văn Giàu, nhà triết học Trần Đức Thảo, GS Trần Quốc Vượng, GS Nguyễn Hồng Phong, nghệ sĩ điện ảnh Pháp Hoàng Thị Thế…
Giáo sư Quý còn kể thêm, vốn sẵn đam mê khoa học xã hội nên không khí học thuật giữa bố chồng và bạn bè đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho sự nghiệp nghiên cứu của bà sau này. Nhìn cách cha chồng sống và làm việc, Giáo sư Quý như được truyền thêm động lực, bà từ bỏ công việc phóng viên với nhiều hoài bão, đam mê để chuyển hướng sang nghiên cứu văn hóa, khoa học. Nhờ sự động viên, chỉ dạy từ người cha uyên bác bà đã tìm được rất nhiều thành công trong sự nghiệp của mình.
Không chỉ riêng Giáo sư Lê Thị Quý mang suy nghĩ ấy, mà tất cả con cháu trong gia đình từ trai, gái, dâu, rể đều thẳng thắn thừa nhận người cha tài hoa – Giáo sư Đặng Vũ Khiêu chính là ngọn đuốc soi đường dẫn lối cho họ noi theo . Chỉ cần nhìn vào tấm gương ấy, họ có thể nhận ra đúng sai, hiểu được lẽ sống và tìm thấy con đường đúng đắn để định hướng cuộc đời mình.

Xuất thân từ vùng đất Nam Định được xem là một trong những cái nôi nhân sĩ trí thức lớn nhất của Bắc Bộ, đặc biệt làng Hành Thiện – ngôi làng nổi tiếng với truyền thống hiếu học, tập trung nhiều “danh gia vọng tộc” nên từ nhỏ Giáo sư Đặng Vũ Khiêu đã lớn lên trong không khí tôn trọng sách vở và lễ nghĩa. “Ở làng tôi, giàu có chưa chắc đã được trọng bằng có chữ. Thậm chí, trọc phú thì dễ bị coi thường”, ông đã từng nói như thế trong một lần phỏng vấn. Và tinh thần hiếu học, lấy tri thức làm đầu ấy đã được ông gìn giữ và tiếp nối, để rồi truyền lại cho thế hệ sau bằng chính đời sống và nhân cách của mình. Ông không áp đặt con cháu phải trở thành học giả hay người nổi tiếng, nhưng luôn răn dạy rằng: "Dù ở cương vị nào cũng phải có tri thức, có đạo đức và sống sao cho xứng đáng với tổ tiên, với dân tộc". Đối với ông, học không phải để hơn người, mà để hiểu mình, hiểu đời và biết sống đúng.
Noi theo lời dạy của cha, các con của ông đã lấy tri thức làm đầu, hết lòng phấn đấu học hành. Trong đó, Giáo sư Đặng Vũ Cảnh Khanh được xem là người kế tục thành công nhất sự nghiệp của cha mình, xứng danh “hổ phụ sinh hổ tử”. Ngoài tiếp nối sự nghiệp khoa học của cha với những công trình nghiên cứu khoa học đồ sộ, đặt nền móng đầu tiên môn Gia đình học ở Việt Nam, ông còn được di truyền tâm hồn nghệ sĩ. Giáo sư Cảnh Khanh rất đam mê hội họa, âm nhạc và văn chương.

“Xét về mặt truyền thống thì gia đình tôi cũng giống như những gia đình trí thức Việt Nam khác chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo. Thái độ học hành, tôn trọng chữ nghĩa thường được xem là nếp sống, một thứ “nghiệp” từ xưa trong gia đình”, Giáo sư Đặng Cảnh Khanh bày tỏ.
Tiếp nối mạch nguồn lấy chữ học làm trọng của cha, vợ chồng Giáo sư Đặng Vũ Cảnh Khanh và Lê Thị Quý cũng rất chú trọng việc gìn giữ, phát triển và coi tri thức làm trọng. Thế hệ thứ 3, thứ 4 của gia đình Giáo sư Đặng Vũ Khiêu vẫn còn giữ được nguyên vẹn chất văn hóa gia đình nho học.
Cháu nội của Giáo sư Vũ Khiêu, con trai cả của Giáo sư Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý là Đặng Vũ Cảnh Linh từ bé đã được ông bà, bố mẹ cho tiếp xúc với sách vở từ rất sớm. Lớn lên, nối nghiệp ông và bố, Cảnh Linh cũng đi theo con đường nghiên cứu triết học. Đặng Vũ Cảnh Linh đang là Phó Trưởng ban phụ trách Ban thông tin và Phổ biến kiến thức (Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam). Ngoài làm khoa học, anh còn làm thơ và có niềm đam mê âm nhạc giống bố.

Nói về cách giáo dục của cha mình, Giáo sư Khanh từng kể rằng: “Là người phóng khoáng nhưng dường như không khi nào ông bao cấp cho con cái. Ông yêu cầu các con phải đi làm sớm, phải vừa học vừa làm, giao việc nghiên cứu để con có thu nhập chứ không cho tiền”. Cũng nhờ phương thức giáo dục nghiêm khắc, kỷ cương ấy tất cả các con, cháu của Giáo sư Đặng Vũ Khiêu đều khẳng định được vị trí của mình trong công việc, có tầm ảnh hưởng nhất định trong sự nghiệp mà không hề bị cái bóng to lớn của người cha, người ông bao trùm. Những công trình của họ được giới chuyên môn và quần chúng công nhận, tán dương.
Có thể nói, trong gia phong của gia đình Giáo sư Đặng Vũ Khiêu, tri thức chính là “gia sản” quý giá nhất. Đó không phải là thứ để cất giữ, mà là ngọn lửa được thắp lên và truyền đi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, như một cách để sống tử tế, có trách nhiệm và góp phần xây đắp nền văn hóa Việt Nam vững bền.
Nhân cách làm rễ, đạo nghĩa đơm hoa
Lúc sinh thời, Giáo sư Vũ Khiêu đặc biệt ngưỡng mộ và cảm phục hai nhà văn hóa lớn là Nguyễn Trãi và Cao Bá Quát. Ông ngưỡng mộ cách sống trọng nhân cách, không chịu “cúi đầu” trước công danh, quyền lực của hai nhà trí thức lớn này. Và tư tưởng này cũng đã ảnh hưởng lớn đến cách sống, đối nhân xử thế của ông.
“Học chữ không chỉ đơn thuần là thu nhận kiến thức mà còn là học cách làm người đàng hoàng. Người có chữ phải là những người có đạo đức”, Giáo sư Vũ Khiêu đã răn dạy con cháu mình như vậy. Bởi với ông, nhân phẩm chính là gốc rễ của một con người, là điều quan trọng hơn mọi danh vọng hay tiền tài. Ông cho rằng, một người trí thức trước hết phải là một người có đạo đức, có nhân cách. Tri thức không đi kèm đạo lý thì chỉ là sự phô trương trống rỗng. Chính vì vậy, trong mọi lời ăn tiếng nói, trong cách đối nhân xử thế hằng ngày, ông luôn lấy sự khiêm nhường, liêm chính và nhân ái làm chuẩn mực.

Những ai tiếp xúc với Giáo sư Vũ Khiêu đều biết rằng, từ lúc hoạt động cách mạng đến năm ngoài 90 tuổi, ông vẫn ở căn nhà công vụ. Trong nhà, đồ dùng thì ít mà nơi nào cũng thấy sách vở ngổn ngang.
TS.Đặng Vũ Cảnh Linh, cháu nội Giáo sư Vũ Khiêu đã từng chia sẻ rằng: “Tôi vẫn nhớ như in những điều ông đã dạy mình. Những bài học của ông rất nghiêm khắc. Ông dạy kiến thức nhưng ông luôn coi trọng chuyện đạo đức con người. Từ bé đến khi lớn lên ông luôn dạy tôi sống như thế nào mà theo quan niệm Nho giáo phải như bậc chính nhân quân tử, sống đàng hoàng, có ích, cống hiến cho xã hội”.

Trong gia đình Giáo sư Vũ Khiêu, những nguyên tắc nho giáo như "trung – hiếu – nhân – nghĩa – lễ – trí – tín" không phải là những khái niệm trừu tượng mà là giá trị sống thực tiễn. Ông dạy các con cháu phải biết kính trên nhường dưới, sống nhân hậu, làm việc chính trực và giữ chữ tín trong mọi mối quan hệ. Những điều tưởng chừng đơn giản ấy lại trở thành kim chỉ nam cho mỗi người trong hành trình trưởng thành và đối diện với cuộc sống.
Giáo sư Vũ Khiêu là người ít nói, cốt cách nhẹ nhàng, từ tốn. Ông và vợ sống với nhau hơn nửa thế kỷ nhưng rất hòa thuận, thương yêu, hầu như không bao giờ to tiếng với nhau. Sau khi vợ mất (năm 1994), nhớ thương bà, ông cụ đã viết câu đối “Nửa mảnh trăng tà soi lạnh gối/ Một nhành mai nhỏ thức thâu canh” và thường xuyên treo bên giường ngủ của mình.

Thấm nhuần lời dạy dỗ của người cha, người ông, người cụ đã truyền dạy, đại gia đình Giáo sư Đặng Vũ Khiêu luôn sống trong một không khí yên ấm, bao bọc lẫn nhau với nguyên tắc tôn trọng, yêu thương nhau. Anh em trong nhà luôn có sự sẻ chia, giúp đỡ mỗi lúc khó khăn. Khi gia đình có công việc chung, việc lớn việc nhỏ mọi thành viên trong nhà lại sum vầy, tề tựu để cùng nhau giải quyết.
Có thể nói, thành công lớn nhất của Giáo sư Đặng Vũ Khiêu không chỉ nằm ở những công trình văn hóa đồ sộ hay danh hiệu cao quý, mà còn ở việc ông đã gieo mầm và nuôi dưỡng được một gia phong đậm chất nho giáo nơi những người con, người cháu biết sống tử tế, có trách nhiệm và giữ vững nhân cách làm người. Trong thời đại hôm nay, đó là một di sản vô giá, vượt qua mọi khuôn khổ vật chất, trường tồn cùng thời gian.
Xem thêm: Gia đình bác sĩ Tôn Thất Tùng: Lấy y học làm sứ mệnh, lấy y đức làm gia tài
Tin liên quan
Gia tộc Đỗ Thế Sử là một dòng họ có truyền thống kinh doanh lâu đời tại Việt Nam, nổi bật với tinh thần khởi nghiệp, tầm nhìn chiến lược và tư duy kinh tế hiện đại. Không chỉ làm giàu bằng trí tuệ mà còn giữ được cái tâm chính là điều khiến gia tộc này trở nên khác biệt giữa thương trường đầy sóng gió.
Gia đình cố giáo sư Nguyễn Lân là một gia đình khoa bảng tiêu biểu của Việt Nam, nổi bật với truyền thống hiếu học và những đóng góp to lớn cho nền giáo dục, khoa học, y học và văn hóa nghệ thuật nước nhà.
Suốt 3 năm qua, cặp vợ chồng trẻ ở Tân Sơn, Phú Thọ đều đặn tổ chức 2 đợt nấu ăn, cho học sinh ăn nghỉ miễn phí vào mùa thi lớp 10 và thi tốt nghiệp THPT.
Bài mới

Trong hành trình phát triển của nền y học Việt Nam, có những cái tên không chỉ được nhớ đến bởi tài năng, mà còn bởi tầm ảnh hưởng đạo đức và giá trị sống mà họ để lại cho thế hệ mai sau. Gia đình bác sĩ Tôn Thất Tùng chính là một hình mẫu rạng rỡ của sự giao thoa giữa trí tuệ và nhân cách, giữa giáo dục gia đình và lý tưởng phụng sự xã hội, với những con người ghi danh mình vào lịch sử Y học không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới.