Quán Thế Âm Bồ Tát là ai? Lịch sử cuộc đời về Quán Thế Âm Bồ Tát

Quán Thế Âm Bồ Tát là người đã giác ngộ, thấu hiểu rõ chân lý của vũ trụ. Ngài thường được chúng sinh biết đến với vai trò là cứu khổ cứu nạn, hóa giải tai ương. Vậy Quán Thế Âm Bồ Tát là ai?

Hoa Nguyễn
21:10 11/03/2021 Hoa Nguyễn
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Quán Thế Âm Bồ Tát là ai? 

Các vị Bồ tát là những bậc được kết tinh bởi đức hạnh cao quý của Đức Phật và được thánh hóa để trở thành người cứu khổ cứu nạn cho con người. Theo thời gian, Quán Thế Âm Bồ Tát dần trở thành chỗ nương tựa cho tâm hồn của họ.

Có thể nói Quán Thế Âm Bồ Tát là biểu trưng của từ bi và trí tuệ - một triết lý tuyệt vời xuyên suốt toàn bộ hệ thống kinh trong Phật giáo. Đặc biệt, hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát, biểu tượng của tình yêu thương bao la vô bờ bến, là đấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền. Ngài luôn được người đời kính trọng bởi hạnh nguyện từ bi, ban vui và cứu khổ. Điều này luôn được Đức Phật nhắc đến trong các cuốn Kinh Đại Thừa.

quan-the-am-bo-tat-la-ai-
Quan Thế Âm Bồ Tát là ai?

Quán Thế Âm quan sát được âm thanh đau khổ của thế gian. Ngài quan sát một cách tự tại mà chứng được bản thể chân thường của vũ trị. Nơi nào đó trong thế giới này có tiếng của chúng sinh kêu lầm than ai oán thì Ngài sẽ hiện thân để cứu độ, tâm thế rất ung dung tự tại cho nên Ngài cũng được gọi là Quán Tự Tại, Quán Thế Tự Tại,...

Bồ Tát có tên đầy đủ là Bồ Đề Tát Đỏa, nghĩa là hữu tình đã giác ngộ. Ví như có nhiều người đang ngủ mê, chỉ có 1 người thức giấc, người ấy đánh thức những người còn lại dậy. Người tỉnh thức đó được gọi là bậc giác ngộ như Chư Phật, Bồ Tát, kẻ ngủ mê kia chính là chúng sinh. Quán Thế Âm Bồ Tát được ví như Người đánh thức những người đang ngủ mê đó.

Vì Ngài đã giác ngọ, biết rõ chân lý của vũ trụ, chứng được phép Nhĩ căn viên thông, nghe thông suốt được hết thảy mọi âm thanh của vũ trụ, hiểu được chân tướng của sự vật, động tĩnh trong ngoài. Cho nên khi chúng sinh một lòng xưng niệm danh hiệu của Ngài, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ lập tức tới giải thoát cho họ khỏi tai ương, hoạn nạn. Ngài đã chứng được bản thể của âm thanh vốn dĩ là hư không, vô thường, vô ngã nên Ngài được tôn xưng là Quán Thế Âm Bồ Tát.

Lịch sử cuộc đời của Quan Thế Âm Bồ Tát

Cuộc đời của Quan Thế Âm Bồ Tát được tương truyền lại qua các bộ kinh như kinh Bi Hoa, Diệu Pháp Liên Hoa kinh - Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, Vô lượng Thọ kinh, Đại Bát Nhã ba la mật đa kinh, Ngũ Bách Danh kinh, Đại Phương Quảng Như Lai tạng kinh… Đặc biệt kinh Bi Hoa nói rất rõ về cuộc đời tu tập của vị Bồ Tát này. Dưới đây là một số thông tin về cuộc đời của Quán Thế Âm Bồ Tát.

Theo kinh Đại A di đà, Quán Thế Âm Bồ Tát là thị vệ bên trái của Đức Phật. Ngài đảm nhiệm việc giải cứu chúng sinh trong cõi Tây Phương Cực Lạc. Khi chúng sinh gặp nạn, nếu thành tâm niệm danh Quan Thế Âm Bồ Tát thì Ngài sẽ xuất hiện che chở và bảo vệ cho bạn. Ngài sẽ gia hộ cứu vớt soi đường chỉ hướng cho chúng sinh.

Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni cách nay vô lượng kiếp Quan Thế Âm Bồ Tát là Phật tử của Như Lai. Ngài nguyện lực đại bi nên đã hiện thân thành Bồ Tát để dễ thực hiện Đại nguyện. Vì vậy ở một số nơi người dân vẫn thường gọi Ngài là Phật Quan Âm.

quan-the-am-bo-tat-la-ai-
Các vị Bồ tát là những bậc được kết tinh bởi đức hạnh cao quý của Đức Phật và được thánh hóa để trở thành người cứu khổ cứu nạn cho con người

Xét về cuộc đời tu hành cũng như cứu khổ cứu nạn của Ngài, trong kinh Bi Hoa có nói rất rõ như sau: “Hàng nghìn năm về trước, Đức Quán Thế Âm là một vị thái tử tên là Bất Huyền, con của vua Vô Tránh Niệm, thời ấy Đức Phật có tên là Bảo Tạng Như Lai. Vua Vô Tránh Niệm hết lòng sùng bái đạo Phật. Vua liền sắm đủ lễ vật quý báu dâng cúng Phật và chư Tăng, vua cũng khuyến khích các quan văn, vương tử, vương tôn, triều đình thường xuyên cúng dường. Thái tử Bất Huyền vâng lệnh vua cha, cũng dâng cúng đủ các trân cam mỹ vị, hết lòng thành kính Đức Phật và chúng Tăng.

Lúc ấy, có vị đại thần tên là Bảo Hải, tức là thân phụ của Phật Bảo Tạng, khuyên thái tử Bất Huyền nên lập nguyện nhờ công đức cúng dường này mà cầu quả báu Vô thượng Bồ đề, không nên cầu quả ở cõi trời, cõi người này, vì quả báu phước cõi ấy là phước báu hữu hạn, dù chúng ta có lên trời rồi, đến khi hết phước cũng phải sa đọa. Sao bằng đem công đức cúng dường này hướng về quả báu vô thượng bồ đề mới là phước báu vĩnh hằng.

Nghe đại thần khuyên như vậy, Thái tử liền đến trước Phật Bảo Tạng phát đại thệ nguyện: “Nguyện xin nhờ công đức cúng dường này cầu quả vô thượng bồ đề. Con nguyện xin trong lúc tu đạo tự lợi, lợi tha, nếu có chúng sinh nào lâm vào tai nạn, không thể tự cứu chữa được, không nơi nương nhờ, hễ niệm đến danh hiệu  của con, con liền đủ sức thần thông đến cứu độ ngay. Nếu lời nguyện ấy không thành, con thề không chứng quả Bồ đề. Con xin phát đại thệ nguyện tu đạo Bồ Tát cho đến cùng tận đời vị lai, trải qua vô số kiếp, khi phụ vương con thành Phật hiệu A Di Đà ở thế giới Cực Lạc thì con sẽ làm thị giả hầu hạ Ngài cho đến khi Chánh Pháp Ngài tận diệt con mới chứng quả Bồ đề. Con nguyện xin Đức Thế Tôn và mười phương chư Phật thụ ký cho con như vậy”.

Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho thái tử và nói rằng: “Do quán sát chúng sinh trong vô số thế giới đều vì tội nghiệp mà phải chịu quả báu đau khổ nên ngươi phát bi tâm, ngươi lại nguyện ý mong muốn nghe được tiếng kêu cầu đau khổ của thế gian để đến cứu độ. Nay ta thọ ký cho ngươi hiệu là Quán Thế Âm. Ngươi sẽ giáo hoá cho vô lượng chúng sinh thoát khỏi khổ não, trong khi tu đạo, ngươi phải làm mọi Phật sự để lợi ích chúng sinh”.

Do đó, sau khi Phật A Di Đà nhập diệt rồi, cõi Cực Lạc sẽ đổi tên là Nhất Thế Trân Bảo Sở Thành Tựu, càng thêm tốt đẹp hơn trước. Khi ấy, đang lúc ban đêm, trong khoảnh khắc, tất cả mọi thứ trang nghiêm đều hiện ra giữa không trung, tức thì ngươi thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thế Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, sống lâu đến 96 ức na do tha kiếp. Sau khi ngươi diệt độ rồi, chánh pháp sẽ còn lưu truyền lại sáu mươi ba ức kiếp nữa”.

quan-the-am-bo-tat-la-ai-
Chúng sinh nào xưng niệm danh hiệu Ngài liền được Ngài đến giải thoát khỏi tai ách, hoạn nạn

Thái tử nghe Phật thọ ký rồi, lòng vô cùng hoan hỷ và bạch rằng: “như lời nguyện của con được hoàn toàn viên mãn thì đối với con còn hạnh phúc nào bằng. Nay con xin nguyện mười phương chư Phật cũng thọ ký cho con như thế, làm cho tất cả thế giới đều rung chuyển như tiếng âm nhạc, ai nghe cũng được giải thoát”. Thái tử bạch rồi, cúi đầu đảnh lễ Đức Phật.

Bấy giờ, thế giới tự nhiên rung chuyển, phát ra âm thanh trong trẻo như tiếng nhạc, ai nghe cũng thân tâm thanh tịnh, dục vọng không còn. Tiếp đó là các Đức Phật trong mười phương thế giới cũng đồng thanh thọ ký cho Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Trong thời kiếp Thiên Trú, ở thế giới Tân Đề Lam có đức Bảo Tạng Như Lai ra đời, thái tử Bất Huyền, con vua Vô Tránh Niệm phát tâm cúng Phật và chúng Tăng ba tháng. Nhờ công đức ấy, trãi qua vô số kiếp về sau, thái tử sẽ thành Phật hiệu là “Biến Xuất Nhất Thế Công Đức Sơn Vương Như Lai” ở thế giới Trân Bảo Sở Thành Tựu.

Nghe chư Phật thọ ký xong, thái tử hoan hỷ vô cùng. Từ đó, trải qua nhiều kiếp về sau, Ngài tập trung tu đạo Bồ Tát, cứu độ chúng sinh, không bao giờ quên đại bi tâm của Ngài.

Kinh Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng và kinh Đại Phương Quảng Như Lai nói rằng: Ngài cùng Bồ Tát Đại Thế Chí vì lòng từ bi, thệ nguyện dấn thân vào con đường phụng sự, đem lại hạnh phúc, an lạc cho chúng sinh, không chịu vào cảnh giới tối thuợng của chư Phật.

Trong Kinh Pháp Hoa có ghi rằng: Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hiện thành thân Phật, thân Bích Chi Phật, thân Đại Tự Tại thiên, thân tiểu vương, thân người nam, thân người nữ… cho đến thân dạ xoa, la sát, phi nhân .v.v… Kinh Ngũ Bách Danh còn đề cập đến 500 loại hóa thân của Ngài để tùy duyên ứng hiện hóa độ thuyết pháp. Còn theo kinh Pháp Hoa ở Phẩm Phổ Môn, Quan Thế Âm Bồ Tát có 33 hóa thân. Để cứu vớt chúng sinh khỏi khổ đau, Ngài thường biến hóa vận dụng 14 năng lực vô ủy của mình.

Ý nghĩa của Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát

Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát là biểu tượng cho đức từ bi và tình mẫu tử. Chũ "từ" có nghĩa là lòng yêu thương, vị tha. Chữ "bi" có nghĩa là cách thức hành động, cứu khổ giải thoát cho chúng sinh. Như vậy, từ bi là thương yêu chúng sinh, cứu vớt họ khỏi hoạn nạn, khổ đau. Quan Thế Âm Bồ Tát có công đức cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh ở khắp 10 phương.

quan-the-am-bo-tat-la-ai-
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát là biểu tượng cho đức từ bi và tình mẫu tử

Ở Ấn-độ, Việt nam, Trung Quốc và nhiều quốc gia tôn sùng Đạo Phật, đâu đâu người ta cũng xây chùa đặt tượng của Quán Thế Âm Bồ Tát để thờ và chiêm ngưỡng. Hình ảnh của Ngài bao trùm lên tất cả tâm trí của con người. Quán Thế Âm Bồ Tát hiện lên như một vị thần, gần gũi, bảo vệ con người mỗi khi người ta trì niệm danh hiệu của Ngài. Ngài đến với mọi người, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, tất cả đều bình đẳng như nhau. Cho nên từ bậc vua chúa đến hàng thường dân, ai ai cũng sùng kính, trì niệm danh hiệu Ngài. Tại sao lại có hiện tượng này? Đó là vì trong tâm của mỗi người chúng ta đều thiện lương như một Quan Âm, chỉ có điều bị vô minh nhiều đời nhiều kiếp che mờ, bị phiền não quấy phá nên chẳng thể nhận ra, khi được ai nhắc đến danh hiệu Ngài thì giống như cây khô được tưới thêm nước mát, đem lại sự sinh sôi nảy nở.

Tóm lại, Quán Thế Âm Bồ Tát quan sát chúng sinh trong thế gian mà khởi lòng đại bi, đoạn trừ phiền não, khổ đau, làm cho chúng sinh được an lạc. Ngài là hình ảnh của đại từ đại bi, của tình thương bao la. Ngài có thể hóa thân thành Phật cho đến thân quỷ dạ xoa, la sát để hóa độ chúng sinh. Chính sự hy sinh đó đã làm cho hình ảnh của Ngài trở nên tích cực hơn trong lòng chúng sinh.

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận