Hé lộ danh tính người Việt đầu tiên làm cho Học viện Viễn Đông Bác cổ ở Đông Dương
Năm 1939, Tổng thống Cộng hòa Pháp đã ký sắc lệnh cho phép người bản xứ vào làm việc tại Học viện Viễn Đông Bác cổ, trong đó có người Việt đầu tiên trong đội ngũ thường trực.
Học viện Viễn Đông Bác cổ đã quy tụ được các nhà Đông phương học, Việt Nam học uyên bác nhất lúc bấy giờ gồm nhà khảo cổ, sĩ quan quân đội (biệt phái viên), tu sĩ, nhà truyền giáo, nhà ngôn ngữ học, nhà dân tộc học, nhà thực vật học, kiến trúc sư…): Louis Finot, Henri Maspero, Henri Parmentier, Louis Malleret, Paul Lévy, George Cœdès, Léon Vandermeersch, Gustave Dumoutier, Etienne Edmond Lunet de Lajonquière, Léopold Cadière, Maurice Durand, Auguste Bonifacy, Henri Cordier, Paul Pelliot, Louis Bezacier, André-Georges Haudricourt…
Nhờ có Học viện Viễn Đông Bác cổ mà những công trình di tích lịch sử của nước ta được gìn giữ và bảo vệ như di tích Việt - Chàm, công trình di sản như Văn Miếu - Quốc Tử Giám tại Hà Nội, chùa Một Cột, chùa Bút Tháp….
Ngày 3.4.1920, Học viện Viễn Đông Bác cổ chính thức nhận các trợ lý, thư ký, văn thư, phiên dịch tinh thông Hán - Nôm, họa sĩ, thợ ảnh, nghệ nhân điêu khắc… là người bản xứ. Tháng 7.1939, Tổng thống Cộng hòa Albert Lebrun ký sắc lệnh cho phép tuyển người bản xứ vào làm việc trong đội ngũ khoa học, nghiên cứu của Học viện Viễn Đông Bác cổ.
Người Việt đầu tiên trở thành nghiên cứu viên của Học viện Viễn Đông Bác cổ là ông Nguyễn Văn Huyên. Theo Amaury Lorin, trong Paul Doumer: Toàn quyền Đông Dương (1897-1902), thì ông Huyên được bổ nhiệm làm thành viên dự bị vào năm 1939, rồi được nhận chính thức vào năm 1942.
Ngoài ra, còn có những trợ lý nghiên cứu, họa sĩ, cộng tác viên người Việt khác như: Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Khoan, Trần Văn Giáp, Nguyễn Thiệu Lâu, Trần Hàm Tấn, Lê Dư, Nguyễn Trọng Phấn, Công Văn Trung... Họ đã có những đóng góp nhất định cho nghiên cứu khoa học của Học viện Viễn Đông Bác cổ và góp phần đặt nền móng cho nền khoa học xã hội nhân văn hiện đại ở Việt Nam.
Học viện Viễn Đông Bác cổ đã tiến hành nghiên trên rất nhiều lĩnh vực, từ khoa học nhân văn, giáo dục, văn hóa dân gian, phong tục tập quán, văn học, văn khắc học, Phật học, đến lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á nói chung.
Để phục vụ cho công việc nghiên cứu khoa học, Học viện Viễn Đông Bác cổ đã thành lập lên các thư viện, bảo tàng quy mô lớn như: Thư viện Học viện Viễn Đông Bác cổ (nay là Thư viện Khoa học xã hội), Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam), Bảo tàng Henri Parmentier (nay là Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng), Bảo tàng Blanchard de la Brosse (nay là Bảo tàng Lịch sử TP. HCM), Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế)…
Ngoài ra, Học viện Viễn Đông Bác cổ còn chú trọng đến công tác đào tạo, giảng dạy; công bố các nghiên cứu của mình thông qua việc xuất bản sách chuyên khảo, hoạt động báo chí,... Cho đến nay, những nghiên cứu của các học giả Học viện Viễn Đông Bác cổ được dịch ra tiếng Việt vẫn còn rất ít. Mong rằng những công trình kinh điển về khảo cổ, kiến trúc Chăm, lịch sử-mỹ thuật của Henri Parmentier, Louis Malleret, Louis Bezacier, Louis Finot… sẽ sớm được xuất bản bằng tiếng Việt trong thời gian tới.
Xem thêm: Loạt ảnh quý về tinh thần "tiên học lễ, hậu học văn" của học trò Việt cách đây 1 thế kỷ
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận