Thế giới chẳng là gì, trật tự cũng không!
Thế giới chẳng là gì, trật tự cũng không!…. Bằng hiểu biết của mình về văn học, anh/chị hãy bình luận vấn đề lý luận đặt ra từ bài thơ.
“Thế giới chẳng là gì, trật tự cũng không!
Nhà thơ thở than và lìa xa thế giới
Thế giới thật tuyệt vời, một nhà thơ khác nói
Và cũng lìa đời khi tuổi đang xuân
Người thứ ba chia tay với một thời dữ dội
Anh đã sống hết mình, cái chết chịu thua anh
Anh vĩ đại và tận cùng trung thực
Vạch cái xấu rồi vun cái tốt phân minh”
(Daghextan của tôi – Raxum Gamatop)
CÁCH LÀM BÀI:
Bản chất của văn chương nghệ thuật là sự khám phá thế giới khách quan qua con mắt chủ quan của người nghệ sĩ. Cho nên, điều quan trọng là con mắt của nhà văn có thể khám phá, nhìn ra được điều gì trong cõi đời phức tạp. Vậy, cho tới tận cùng của cái đích nghệ thuật, văn chương muốn ánh mắt ấy thấu hiểu được giá trị nào trong thế giới kia ? Bằng việc đặt ra nhiều góc nhìn, đánh giá của nhiều nhà thơ, tác giả “Daghextan của tôi” (Raxum Gamatop) đã chỉ ra được câu trả lời cho văn chương cổ kim. Bài thơ của Raxum Gamatop khép lại chỉ với tám câu thơ nhưng lại mở ra được ba quan điểm, tư tưởng nhìn nhận thế giới khác nhau của ba đối tượng nhà thơ trên văn đàn. Trước hết, đó là kiểu nhà thơ tiêu cực, nhìn thế giới một chiều, không hứng thú với bất kì vẻ đẹp nào. “Thế giới chẳng là gì, trật tự cũng không” Ánh mắt của anh mang theo cái nhìn ích kỉ, tối tăm trong tâm hồn mà nhìn vào cả thế giới. “Thế giới chẳng là gì” đó là một sự phủ nhận đầy phiến diện về cuộc sống khách quan, người nghệ sĩ đã chẳng còn đủ nhiệt huyết, tâm và tài để nhìn ra ở đó vẻ đẹp thẩm mĩ bình dị hay tinh tế, cao cả. Nhà thơ thứ hai trái lại với đó, anh nhìn vào thế giới chỉ toàn là màu hồng, lầu son: “Thế giới thật tuyệt vời, một nhà thơ khác nói” Người nghệ sĩ đã chẳng thể phân biệt được xấu, đẹp ở trên đời. Anh cho tất cả thế giới đều tuyệt vời, đẹp đẽ mà đắm chìm trong nó. Nhưng, dù khác nhau về cái nhìn, đánh giá thế giới, hai đối tượng nhà thơ trên đều nhận một kết quả cuối cùng “lìa xa thế giới”. Có thể hiểu, sự lìa xa cuộc đời ở đây là cái chết của tâm hồn nghệ sĩ, cái chết thiển cận, không nhận ra điều xấu để lánh xa, dần “lìa xa” mà anh nhận lấy đồng thời có thể là cái chết của bài thơ, của tác phẩm nghệ thuật. Một tác phẩm liệu có thể đi đến đâu khi không thỏa mãn được cho con người khao khát thẩm mĩ, thưởng thức cái đẹp hay không thể soi tỏ cho con người những góc khuất tăm tối, xấu xa của đời sống. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, việc lí tưởng hóa hay đánh giá một chiều đều là thứ thuốc độc mà người nghệ sĩ phải lánh xa. Một nhà thơ tiêu cực, chỉ nhìn ra cái xấu để sợ hãi, than thở mãi mãi chẳng thể dẫn người ta tìm đến con người đi tìm trong đời cái đẹp của tự nhiên, tình yêu và ngay cả vẻ đẹp trong chính bản thân họ. Bản chất của văn chương nói chung và thơ ca nói riêng là hành trình đi tìm giá trị thẩm mĩ mà với con mắt tiêu cực kia, anh chẳng thể dẫn người ta tìm đến đâu cả. Độc giả tìm đến thơ với mong muốn nhận được bài học trông-nhìn- thưởng thức, để tìm ra trong thế giới muôn màu kia những niềm vui, hi vọng, lạc quan sống. Cho nên, khi ngay cả người trong vai trò dẫn đường thấy “thế giới chẳng ra gì” anh đã tìm đến cái chết của nghệ thuật. Nếu như trước đây, nhà thơ Trần Đăng Khoa không thể thấy ở đời một vẻ đẹp bình dị, tinh tế:
“Ngoài thềm rơi chiếc lá đa Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” Hay Tố Hữu không tìm thấy tong cuộc sống một tình cảm chân thành, mặn nồng giữa người với người: “Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” Thì có lẽ, thơ ca đã chết ngay từ khia kịp nảy nở và tỏa hương. Nhưng, nói như vậy cũng không có nghĩa là nhà thơ chỉ chăm chăm kiếm tìm cái đẹp, lí tưởng hóa “thế giới tuyệt vời” mà bỏ quên con đường vạch ra cái xấu, cái ác. Chức năng của văn chương là phải giáo dục con người, hướng con người tới những giá trị chân – thiện – mĩ tốt đẹp, đồng thời chỉ ra cái xấu để con người loại bỏ, tránh xa. Thứ văn chương chỉ làm con người ta ảo tưởng, mợ mộng, sống trong thế giưới màu hồng hóa ra lại trở thành những điều giả dối, che mắt mà thôi. Con mắt của nhà thơ phải là con mắt trung thực với chính mình và cuộc đời, anh phải dùng ngòi bút của mình để cải tạo xã hội “diệt bạo, trừ gian”. Chỉ có như vậy, bài thơ mới trở thành những bài học sống, đưa con người ra khỏi chốn tối tăm, tàn bạo. Như vậy, cả việc coi “cuộc đời chẳng là gì” là lí tưởng hóa cuộc sống đều đem đến những cái chết tận diệt của thơ ca cổ kim. Vậy, thơ ca cần một cái nhìn như nào của người nghệ sĩ ? Con mắt của nhà thơ phải là một cái nhìn toàn diện, trung thực, nhìn ra ở đời tất cả những biến thái, ngõ ngách tinh rõ nhất của nó:
“Anh đã sống hết mình, cái chết chịu thua anh Anh vĩ đại và tận cùng trung thực Vạch cái xấu, vun cái tốt phân minh” Cuộc đời của con người vốn vô cùng phong phú, phức tạp, nó đan xen cả điều thiện và điều ác. Điều quan trọng không chỉ là anh nhận ra được đâu là tốt, đâu là xấu mà còn phải giúp cho độc giả thấu hiểu, cảm nhận vẻ đẹp, vun mầm nó và tránh xa, gạt bỏ điều xấu xa. Con mắt của nhà thơ luôn phải là con mắt tinh đời, người nghệ sĩ không chỉ nhìn bằng con mắt hời hợt, bề ngoài mà phải nhìn kĩ, nhìn sâu vào bên trong bản chất sự việc, con người. Hơn thế nữa, bằng trải nghiệm, sự dày dặn của mình nhà thơ còn biết khám phá cái tốt bên trong cái xấu, cái xấu ẩn bên trong cái tốt. Để có được cái nhìn đa diện, tinh tế, sâu sắc về cuộc đời, người nghệ sĩ trước hết phải gắn bó, sống hết mình với thế giới xung quanh. Việc cái nhìn của anh sẽ sâu sắc hay hời hợt phụ thuộc trực tiếp vào mối quan hệ của nhà thơ với cuộc đời. Người nghệ sĩ phải “lặn lội trong những chốn lầm tham, cầm bút dưới những gian khó” chứ không bao giờ là sự sáng tạo “ngôi trên lầu hồng” hay kiến tạo bởi trí tưởng tượng bé nhỏ. Trước khi truyền cho con người những tình cảm yêu thương, rung động thẩm mĩ hay lòng căm thù cái ác, anh phải yêu trước, hận trước. Nhà văn không thẻ giả dối với chính mình, người cầm bút phải nhìn nhận, đánh giá một cách trung thực, vĩ đại vì cái ta chung của tất cả mọi người. Có như vậy, tư tưởng, góc nhìn của anh mới chân thực phổ quát và mang giá trị nhân sinh, nhân đạo. Văn chương nói chung và thơ ca nói riêng bao giờ cũng phải có giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân thức, giáo dục. Vì thế, việc khai thác, tìm ra cái đẹp và chỉ ra cái xấu phải cùng lúc song hành với nhau tạo nên giá trị tác phẩm. Có nghĩa rằng, trong quá trình làm thơ, anh vừa trung thực, chân thành nhưng cũng phải vừa giữ được cái “cong” của một phẩm thơ hay, kết hợp hiện thực và chất sáng tạo. Ngay từ văn học trung đại, mặc dù chưa trình bày một cách khoa học theo cơ sở lí luận hiện đại nhưng trong tư tưởng và quan niệm sáng tạo của các nhà thơ tiến bộ đã nhận thấy và thể hiện điều nay. Nổi bật trong đó là các tác phẩm của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bài thơ “Độc Tiểu thanh kí” vừa vang lên như một khúc ca tôn vinh vẻ đẹp con người, thiên nhiên, vừa là tiếng nói đanh thép, dội vào thế lực đen tối của xã hội phong kiến, đòi quyền sống cho con người. Trước hết, đó là sự ngợi ca vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của người con gái Trung Hoa – Tiểu Thanh: “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư” Bài thơ bắt nguồn từ cảm hứng về sự thay đổi, lụi tàn đối lập của cảnh xưa và cảnh này, người xưa với xay. Nhà thơ thể hiện sự đau đớn, thương tiếc một cảnh đẹp Tây Hồ nay đã hóa gò hoang. Động từ “tẫn” đã diễn tả, xoáy sâu một sự hủy hoại tới tận cùng, tận diệt. Nó gây trong lòng người bao tiếc nuối, vấn vương. Càng ngậm ngùi nhớ về quá khứ bao nhiêu, lời thơ lại càng trở nên trân trọng, cảm thông với vẻ đẹp bị lụi tàn, vùi dập bấy nhiêu. Hai từ “hoa uyển” không chỉ diễn tả một cảnh đẹp viên mãn, thơ mộng mà còn gợi ra một vẻ đẹp diễm lệ, yêu kiều của Tiểu Thanh – người con gái sống ở Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Chính hành động đầy chân thành, khao khát “độc điếu”, một mình tìm đến tri âm, chia sẻ với số phận của người phụ nữ sống cạnh đó ba trăm năm về trước đã khẳng định mong muốn được khám phá, cảm nhận vẻ đẹp đã xa của con người. Cho dù rằng, hiện tại nhà thơ đang đối diện với một “thành khư”, một mảnh di cảo mong manh, một thiên nhiên cô độc, hoang tàn nhưng ẩn sâu trong khát khao đầy nhân đạo của Nguyễn Du, ông đang tri âm, tìm lại vẻ đẹp xưa cũ. Đó chẳng phải là con mắt tinh tế nhìn ra được cái đẹp ngay cả trong cái xấu hay sao? Cảnh tàn nhưng ẩn chứa một con người, một cốt cách, một tâm hồn đẹp. Hình ảnh “chi phấn” và “văn chương” là nhưng cách nói ẩn dụ thể hiện sự trân trọng với nhan sắc và tài năng của người con gái tài hoa mà bạc mệnh. Nguyễn Du đã nhìn ra được trong mảnh di cảo còn vương xót kia một Tiểu Thanh xinh đẹp, sắc nước hương trời, một ngòi bút văn chương tài hoa và tinh tế. Càng thấy được vẻ đẹp, khám phá vẻ đẹp tài sắc của nàng bao nhiêu, Nguyễn Du lại càng trân trọng, thương cảm cho nàng bấy nhiêu. Chính ngòi bút của nhà thơ đã dẫn người đọc cùng yêu và cùng thương với “con mắt nhìn xuyên sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” của mình. Nhưng có phải chăng trong lời ngợi ca tài sắc của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã lí tưởng hóa thế giới theo cái cách “thế giới thật tuyệt vời, một nhà thơ khác nói” hay không? “Chi phấn” ấy nhưng lại là “chi phấn” phải “chôn còn hận”, “văn chương” tài sắc ấy nhưng là “văn chương” mà “đốt còn vương”. Rõ ràng con mắt của nhà thơ đã nhìn rất sâu vào cuộc đời và con người. Ông không chỉ ra bất kì một thế giới “chẳng là gì” hay thế giới “thật tuyệt vời”, chúng đan xen vào nhau, tạo nên cả một sự sống muôn màu, muôn vẻ, tốt xấu đan cài. Nguyễn Du đã trực tiếp vạch ra trong số phận con người một nghịch lí “tài hoa bạc mệnh”, “tài mệnh tương đố”. Đó chính là ngòi bút trung thực, chân thành, vạch ra cái xấu phân minh: “Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” Trong cái tối tăm, mịt mù của xã hội phong kiến bất công, người ta cứ mòn mỏi đi tìm lời giải cho số kiếp nghiệt ngã của những con người tài hoa. Hóa ra, tất cả nỗi oan khiên họ nhận được không phải đi từ một rủi ro, bất trắc hay lỗi lầm nào, họ bất hạnh, gian truân bởi một “nết phong nhã”. Vĩ “nết phong nhã” mà mắc oan khiên, đó là cái tàn bạo, bất công đến tận cùng của một xã hội, thời đại xấu xa, mục rũa. Nguyễn Du đã thẳng thắn, trung thực nhìn vào hiện trạng ấy của con người mà cất lên tiếng nói lên án, đòi lại công bằng, nhà thơ tự nguyện, chân thành, cho mình là kẻ đồng cảnh ngộ với kiếp tài hoa, bạc mệnh mà cảm thông, sẻ chia, tri âm. Bằng lòng của một người nghệ sĩ vĩ đại, sống hết mình đã tỏa sáng lời thơ đầy nhân văn, nhân đạo. Không chỉ vạch ra cái xấu, tiếng thơ, tiếng lòng Tố Như còn vươn lên đòi quyền sống, khát khao tri âm của con người giữa cõi đời đen bạc: “Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” Đó là khát khao chân chính của một nhà thơ “sinh bất phùng thời”, “tài hoa bạc mệnh” như bao con người khác trong xã hội cũ. Đó không chỉ dừng lại là tiếng nói vạch trần, lên án cái xấu mà còn mang hơi hướng đem con người tới những ước mơ cao cả, đẹp đẽ hơn trong mịt mù, tối tăm cuộc đời. Như vậy, bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” thực sự trở thành minh chứng tiêu biểu cho giá trị đích thực của thơ ca chân chính: nâng đỡ cái tốt, loại bỏ lên án cái xấu trong đời. Cái nhìn của Nguyễn Du là cái nhìn toàn diện, đa chiều, hướng tới cuộc đời muôn hình vạn trạng. Chắt chiu hàng ngàn hạt bụi quý từ cuộc sống, đôi mắt nhà văn đã thu vào bao biến chuyển tinh vi của thế thái nhân tình. Và anh, những người nghệ sĩ chân chính, tận cùng trung thực sẽ trở thành người nâng giấc cho con người trên con đường hướng thiện và hướng thượng.
(Nguồn: theki.vn)
Xem thêm: Nâng tầm bài viết với 100 nhận định lý luận văn học về văn xuôi
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận