Nguyễn Quý Đức: Vị Tể tướng khả kính, bỏ tiền túi tu sửa Quốc Tử Giám
Tể tướng Nguyễn Quý Đức là vị quan tài giỏi, sống khoan hòa, đôn hậu. Ông chính là người bỏ tiền túi ra tu sửa Quốc Tử Giám. "Đức quý" của Tể tướng còn truyền lại cho con cháu đời sau.
Vị tể tướng khả kính
Nguyễn Quý Đức (1648 - 1720), húy là Tộ, tự Bản Nhân, hiệu Đường Hiên. Ông là nhà thơ, nhà giáo, nahf sử học, nhà chính trị thời Lê Trung hưng.
Nguyễn Quý Đức là người làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, cha ông đỗ sinh đồ, khi ông đỗ Thám hoa cha được ấm phong Đô đài Ngự sử Nguyễn Quý Cường.
Năm lên 8 tuổi, Nguyễn Quý Đức theo học với chú họ (tự là Đạo Thông, nguyên là Tri huyện), và nổi tiếng là "kỳ đồng" ngay từ thuở nhỏ. Năm 15 tuổi (1663), ông đỗ Hương cống (cử nhân), được thụ chức Hàn lâm viện Hiệu thảo. Sau đó, ông theo học với Tiến sĩ họ Lê (người làng Tam Lộng, huyện Lôi Dương, Thanh Hóa). Năm 22 tuổi (1670), ông đỗ khoa thi Hoành từ, được thăng làm Thị nội văn chức.
Vào thi năm Bính Thìn (1676) đời vua Lê Hy Tông, Nguyễn Quý Đức một mình chiếm một bảng khôi nguyên "Đệ nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh", tức là Thám hoa. Khoa này không có Trạng nguyên, Bảng nhãn, ông là người đứng đầu, tức là Đình nguyên.
Là người đỗ cao, Nguyễn Quý Đức được bổ nhiệm làm Thiêm đô ngự sử làm chánh sứ sang Trung Quốc (1690), rồi làm Tả thị lang Bộ Lại. Ông được giao trọng trách cùng Lê Hy biên soạn Đại Việt sử ký bản kỷ. Năm 1708 được thăng chức Thượng thư bộ Binh, rồi đến chức Tham tụng (Tể tướng) hàm Thiếu phó Liêm Quận công.
Nguyễn Quý Đức là một vị quan có tài, có đức. Sinh thời, ông sống khoan hòa, đôn hậu, gần dân. Pha Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí cho biết: "Triều đình có chế tác gì lớn, phần nhiều do tay ông thảo. Ông làm tể tướng 10 năm, về chính sự chuộng khoan hậu...". Lịch triều hiến chương loại chí cho biết: "Triều đình có chế tác gì lớn, phần nhiều do tay ông thảo. Ông làm tể tướng 10 năm, về chính sự chuộng khoan hậu...".
Sách Lịch triều tạp kỷ thì ghi: "Là người rộng rãi, trung hậu và trầm tĩnh, từ cách cư xử đến cách thù tiếp đều tỏ ra vui vẻ dễ dàng, nhưng khi bàn luận chính sự, hễ thấy việc gì chưa thỏa đáng thì kiên trì ý kiến nhiều lần, vững chắc không thể lay chuyển được... Ông làm chính sự cốt ở khoan hòa và trung hậu, được nhiều người suy tôn và noi theo". Bởi vậy trong dân gian lưu truyền câu "Tể tướng Quý Đức, thiên hạ yên tức" (Tể tướng Quý Đức, thiên hạ yên vui).
Ông còn giỏi văn thơ, kiến thức văn uyên bác, từng giảng dạy, , đào tạo nhân tài ở Quốc Tử Giám. Bấy giờ triều vua Lê chúa Trịnh đã qua 60 năm với 20 khoa thi mà chưa có bia tiến sĩ để ghi danh trong Văn Miếu. Nguyễn Quý Đức làm sớ xin trùng tu lại Quốc Tử Giám.
Bỏ tiền túi tu sửa Quốc Tử Giám
Sử sách có chép, nhà Lý xây Văn Miếu năm 1070, Trường Quốc học năm 1076, sau một thời gian dài trở nên hoang tàn. Nguyễn Quý Đức đã xin triều đình cho trùng tu, gần như xây mới hoàn toàn, khang trang bề thế hơn. Số tiền cấp ít ỏi, ông quyên góp và bỏ tiền riêng cho đủ kinh phí.
Sau hai năm vất vả, Quốc Tử Giám được sửa sang lại khang trang hơn: dựng điện Đại Thành và hai bên tả hữu vu, trang trí lại nhà Thái học, dựng 21 bia tiến sĩ mới còn thiếu. Mặc dù bận công việc của Tể tướng, ông vẫn trực tiếp theo dõi tỉ mỉ mọi việc và đích thân san nhuận từng văn bia một.
Khi tuổi đã cao, Tể tướng Nguyễn Quý Đức viết khải dâng lên chúa Trịnh: "Nghĩ mình được lạm gánh trách nhiệm nặng nề, thẹn không xứng đáng làm men để chế rượu, làm muối để pha canh... Tự xét lại, đức của thần còn kém xa các bậc tiên hiền, may trời ban cho được đến tuổi trí sĩ, thế mà không biết noi theo việc làm của tiên hiền, treo mũ cáo lão, thì e có cản trở đến đường lối đi tới của người hiền và không khỏi bị tiếng chê là luyến tiếc quyền vị".
Triều đình đánh giá cao tài đức của ông nên muốn giữ ông lại làm quan. Ông phải ba lần làm khải dâng chúa mới chấp nhận. Ngày về hưu, ông được vua Lê tự tay ban cho bốn chữ "Thái sơn Bắc đẩu", hàm Thái phó Quốc lão.
Khi về hưu, Nguyễn Quý Đức lại ra đồng bàn công việc với dân. Ông lấy 10 mẫu đất được triều đình ban tặng đem cho dân. Trong đó dùng 4 mẫu để mở chợ Thánh Nguyên, tức chợ Mỗ ngày nay.
"Đức quý" của Tể tướng còn truyền lại cho con cháu
Đến nay, người dân kinh kỳ Thăng Long - Hà Nội vẫn còn lưu truyền câu ca: "Nhất Mỗ, nhì La, thứ ba Canh, Cót" để chỉ những làng khoa bảng có nhiều người tài giỏi và nổi tiếng trong việc giúp dân, phụng sự đất nước. Nhất Mỗ ý chỉ làng Thiên Mỗ (nay là phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm) được xếp đầu, có gia đình danh nhân Nguyễn Quý Đức cả ba đời nối tiếp đều giữ các chức vụ trọng yếu trong triều đình.
Tể tướng Nguyễn Quý Đức và con trai là Nguyễn Quý Ân đều đỗ Tiến sĩ, cháu nội là Nguyễn Quý Kính đỗ Hương cống (cử nhân). Ba đời nhà Nguyễn Quý đều giữ chức vụ trọng yếu trong triều đình, khi mất đều được phong làm phúc thần, được người dân làng Thiên Mỗ lập đền thờ coi là thành hoàng làng.
Tại Di tích lịch sử văn hóa Nhà thờ tam đại vương họ Nguyễn Quý hiện vẫn còn lưu giữ 3 tấm bia ghi công trạng của Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý Ân và Nguyễn Quý Kính.
Di tích lịch sử văn hóa Nhà thờ tam đại vương họ Nguyễn Quý không chỉ là khu lưu niệm mang tính chất dòng họ mà đây còn là nơi để người dân phường Đại Mỗ tìm đến để tri ân công đức 3 phúc thần vào dịp mồng một và ngày rằm hàng tháng.
Xem thêm: Thái úy Tô Hiến Thành - Danh tướng tài đức, thanh liêm, khi vua mất ăn chay để tang 6 ngày
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận