Ngôn ngữ thơ đậm chất hội họa trong Tây Tiến

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài. Ông làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc; những thành tựu thơ ca vẫn là tiêu biểu nhất...

Đỗ Thu Nga
10:00 01/11/2023 Đỗ Thu Nga
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Trong số các thi sĩ hàng đầu của nền thơ chống Pháp, người ta nhớ đến Quang Dũng với một phong cách thơ lãng mạn, hào hoa bên cạnh dấu ấn cổ điển, đồng thời là tác giả đã làm nên những tác phẩm để đời: Đôi mắt người Sơn Tây, Đường mưa chiều số 5, Tây Tiến... Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất của đời thơ Quang Dũng, đồng thời được xem là thi phẩm xuất sắc của thơ ca viết về người lính chống Pháp. Bài thơ được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. Ngoài giá trị về nội dung tư tưởng, Tây Tiến còn đạt được những phẩm chất đặc sắc về mặt nghệ thuật, trở thành đỉnh cao trong hành trình của thơ hiện đại Việt Nam.

Thơ ca là đôi cánh thiên thần bay trên những mảng màu của hiện thực đời sống. Với Quang Dũng, điều đó càng đúng, ít nhất là ở bài thơ Tây Tiến này. Có thể nói, sự thành công về mặt nghệ thuật của thi phẩm trước hết chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. Bút pháp hiện thực giúp người đọc thấy được không gian núi rừng hùng vĩ, đời sống chiến đấu gian khổ và ác liệt mà người lính Tây Tiến phải trải qua. Bút pháp lãng mạn tô đậm thêm cái phi thường, dữ dội cũng như sự mĩ lệ, nên thơ của bức tranh thiên nhiên rừng núi; đồng thời nhận ra vẻ đẹp bi tráng, sự lãng mạn, hào hoa của hình tượng người lính Tây Tiến trong cuộc trường chinh cứu nước vĩ đại.

Qua ngòi bút của Quang Dũng, thiên nhiên miền Tây với núi cao, vực sâu đầy gian khổ và nguy hiểm đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm hồn người đọc khi tiếp cận với bài thơ Tây Tiến. Tuy nhiên, hiện thực khốc liệt ấy đã được bút pháp lãng mạn nhà thơ đẩy lên thành cái tuyệt đối, tuyệt mĩ. Núi cao sừng sững "ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống" chạm vào cả mây bay khi mũi súng người lính "ngửi trời" nơi tầng không heo hút. Đường dốc quanh co, khúc khuỷu khi ngước nhìn lên; thăm thẳm vực sâu khi nhìn xuống trong thế đối lập càng tô đậm hơn những vất vả, gian lao mà con người phải vượt qua. Nhưng cũng trên cái nền của hiện thực đời sống chiến đấu, Quang Dũng đã dựng lên một thiên nhiên bằng những câu thơ tuyệt bút:

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Ba câu đầu là cảnh vật hùng vĩ có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn; nhưng đến câu thơ "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" lại thuần khiết là âm điệu của tâm hồn, là cánh thơ bay với đôi cánh của cảm hứng lãng mạn. Cộng hưởng lại, người đọc nhận ra một hồn thơ Quang Dũng thật tài hoa, nó là tiếng vọng phát ra từ chính sự chiêm cảm hiện thực, đồng thời được chưng cất và xây nên từ ước mơ và niềm khát vọng vô cùng. Miêu tả cảnh vật mà dựng được ý chí, tư thế của con người, thấy được chiều kích ngang tầm vũ trụ của người lính Tây Tiến. Xưa Phạm Ngũ Lão dùng bút pháp lãng mạn phác họa chân dung người lính đời Trần "cầm ngang ngọn giáo giữ non sông đã mấy thu", nay Quang Dũng đưa người lính Tây Tiến lên cao ngàn thước, giữa "heo hút cồn mây" mà chạm mũi súng vào khoảng không xanh thẳm trong một khí thế uy nghi, lừng lẫy ngất trời.

ngon-ngu-tho-dam-chat-hoi-hoa-trong-tay-tien

Đâu chỉ tuyệt đối hóa cái hùng vĩ, dữ dội bằng bút pháp lãng mạn trong miêu tả thiên nhiên miền Tây tráng lệ, trong cảm quan của mình, Quang Dũng nhìn thiên nhiên bằng con mắt của một thi sĩ tài hoa và giàu cảm xúc. Một loài hoa nở trong đêm hơi sương, những mái nhà thấp thoáng trong làn mưa nhẹ và "hồn lau" trôi dạt nẻo bến bờ..., tất cả trở thành một vùng ký ức nên thơ, êm dịu. Nếu đoạn thơ đầu thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội và khắc nghiệt bao nhiêu, thì càng về sau lại trở nên hiền hòa, êm đềm và thơ mộng bấy nhiêu. Vẫn là thiên nhiên miền Tây đó thôi, nhưng trong buổi chiều sương ở Châu Mộc, cảnh sông nước hiện ra thật đẹp và lãng mạn qua cái nhìn tinh tế và tài hoa của tác giả:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Ở đây, bút pháp hiện thực giúp cho người đọc thấy được bức tranh thiên nhiên chiều sương thơ mộng ở một địa danh cụ thể là Châu Mộc, những hình ảnh "hồn lau" trôi dạt lại là cái ảo, cái huyền hồ của tâm cảm thi nhân qua hồi ức nhớ thương. Miền Tây Bắc nước ta, do điều kiện tự nhiên, thác lũ là là hình ảnh có thực, nhưng "trôi dòng nước lũ hoa đong đưa" là vẻ đẹp được sinh thành từ bút pháp lãng mạn mà nhà thơ gợi ra. Nước lũ ào ào cuộn chảy, loài hoa mong manh trôi giữa dòng nước ấy nhưng chỉ thấy "đong đưa", trôi nhẹ nhàng quả là sự kỳ diệu của tâm hồn. Có người bảo miêu tả như thế cho phù hợp với dáng người trên con thuyền độc mộc cũng rất mảnh mai, duyên dáng. Dù sao đi nữa, nó cũng là thi ảnh bật ra giữa giây phút mộng mơ của cõi lòng nhớ nhung mãnh liệt. Vì vậy, nhìn tổng thể về mặt bút pháp miêu tả bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến, ta có thể nhận thấy có một sự đối lập trong sự hài hòa qua cách nhìn, cách cảm của thi nhân: vừa gân guốc, táo bạo song lại rất mềm mại, trữ tình. Đó chính là nghệ thuật đối lập trong sự thống nhất của bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn.

Sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ Quang Dũng sử dụng rất thành công khi xây dựng hình tượng người lính Tây Tiến với tinh thần bi tráng và vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa. Có thể nói rằng, ở đoạn thơ đầu, chân dung người lính Tây Tiến đã xuất hiện thấp thoáng qua nỗi nhớ của nhà thơ trên cái nền của bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng. Đó là phút dãi dầu nắng mưa, gian lao và vất vả đến nỗi:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời".

Đó là thời khắc của đêm liên hoan văn nghệ nơi bản làng xa xôi trong điệu khèn, tiếng hát, "đuốc hoa" rực sáng nơi "doanh trại" khi đoàn quân Tây Tiến dừng chân. Những người lính yêu đời, trẻ trung và lãng mạn hiện lên thật đẹp qua cảm giác ngỡ ngàng và đắm say:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em, xiêm áo tự bao giờ".

Đó là cảnh vượt thác ở Châu Mộc trong một buổi chiều sương, xuôi dòng nước lũ "hoa đong đưa". Tuy nhiên, phải đến đoạn thơ thứ ba với các dòng thơ khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, ta mới thấy đầy đủ nhất, sinh động nhất hình tượng người lính qua sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn tài hoa của nhà thơ Quang Dũng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Trước hết, về hình dáng bên ngoài của người lính Tây Tiến, lâu nay cũng có không ít tranh luận diễn ra. Có người bảo "hình ảnh đoàn binh không mọc tóc" là do người lính tự cạo trọc đầu để hành quân cho thuận tiện, nhưng cũng có ý kiến bảo là vì sốt rét rừng nên tóc rụng nhiều dẫn đến trọc đầu. Dù cho cách hiểu nào thì câu thơ cũng bắt đầu từ một hiện thực gian khổ, vất vả mà đoàn quân Tây Tiến phải trải qua, tất nhiên lý do sốt rét rụng tóc vẫn được nhiều người đồng tình hơn cả. Nhưng qua cách miêu tả của nhà thơ, cả "đoàn binh không mọc tóc" thì đã được bút pháp lãng mạn chắp cánh, thành ra rất ấn tượng, khó quên. Đầu trọc cộng với cái dáng vẻ bên ngoài "quân xanh màu lá dữ oai hùm" đã đẩy hình tượng lên một đỉnh điểm khác thường, làm nổi bật chân dung người lính. "Quân xanh màu lá" vừa miêu tả những cành lá ngụy trang trên bước đường hành quân, vừa gợi được nét vẽ xanh xao của thiếu thốn, ốm đau và sốt rét gây ra. Tất cả điều ấy bắt nguồn từ một thực tế gian khổ và đầy vất vả mà người chiến sĩ Tây Tiến phải trải qua trong cuộc đời chiến đấu. Điều thú vị là trên cái nền của hiện thực gian lao ấy, Quang Dũng đã nâng đỡ và chắp cánh bằng bút pháp lãng mạn, thành ra người lính Tây Tiến trở thành một đoàn binh anh hùng, lẫm liệt. "Xanh màu lá" mà vẫn "dữ oai hùm" với một tư thế hiên ngang, bất khuất.

Không chỉ giúp người đọc thấy được chân dung bên ngoài, nhà thơ Quang Dũng, với ngòi bút được chắp cánh bởi một nguồn cảm hứng lãng mạn, người lính Tây Tiến hiện lên qua nét vẽ tâm hồn thật độc đáo và hào hoa. Hình ảnh "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" gợi được nỗi nhớ xa xăm, da diết đến quặn lòng. Có lẽ vì cảm thức được không gian cách xa dịu vợi, nên mỗi lần hướng về quê cũ, người lính phải dõi cái nhìn thật xa, đăm đăm mới mong thỏa được nỗi niềm thương nhớ. Bên này biên giới Việt - Lào, muốn mơ về Hà Nội để gặp được "dáng kiều thơm" của một thời kỷ niệm, người lính phải thao thức bồn chồn, phải lắng sâu biết bao nỗi niềm yêu ái. Chính bút pháp lãng mạn đã làm cho những câu thơ trên đi vào bất tử, và hình tượng người lính Tây Tiến thấm đẫm vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa. Chính điều này mà một thời người ta đã phê phán Quang Dũng là tiểu tư sản, là mơ mộng viển vông, là "anh hùng nửa vời". Nhưng quả thật, nếu người lính không có những phút giây sống thật với lòng mình, bản thân nhà thơ không "bay" lên bằng đôi cánh của tâm hồn mơ mộng, làm sao có thể chịu được nỗi mất mát, tang thương trong phút giờ sinh tử:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Đoạn thơ diễn tả một hiện thực mà bất kỳ cuộc chiến tranh nào cũng xảy ra, đó là sự hi sinh quả cảm của người lính. Ở đây, Quang Dũng, bằng chính sự trải nghiệm của đời mình, ông đã thủ thỉ cùng người đọc về sự mất mát: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ". Câu thơ thuần tả và kể mà thấm sâu và trĩu nặng nỗi buồn. Những nấm mồ "viễn xứ" dù chỉ "rải rác" nhưng đã phản ánh được sự thật đau lòng. Bút pháp hiện thực không cần dụng công vẫn đủ khiến tâm hồn ta tê tái. Sao lại né tránh hiện thực? Quang Dũng không làm thế và cũng không nỡ làm thế! Có điều trên cái nền của hiện thực bi thương ấy, tác giả đã biết kết hợp với bút pháp lãng mạn để nâng cao vẻ đẹp hình tượng người lính anh hùng.

Sự hi sinh của người chiến sĩ Tây Tiến nhờ thế không còn gợi sự bi quan, ảm đạm mà ánh lên khát vọng hiến dâng, sống và chiến đấu trọn đời cho lí tưởng "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Lãng mạn và bi tráng nhất là hình tượng dòng sông Mã "gầm lên khúc độc hành" như một niềm bi ai dữ dội và hoành tráng. Đó là tiếng thét hờn căm, là nỗi đau bi tráng, là tiếng gọi gào của rừng núi tiễn các anh về với đất mẹ ngoan cường: "Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Dường như "khúc quân hành" của người lính đã hóa thân vào tiếng "gầm thét" của dòng sông Mã bất tử và trường tồn mãi với muôn đời. Quả vậy, có thể xem những câu trên trong bài Tây Tiến là minh họa sinh động nhất cho đặc trưng của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn tiêu biểu của thơ Việt Nam từ 1945 - 1975.

Bài thơ Tây Tiến, nhìn nhận trên bình diện bút pháp nghệ thuật, là một thành công lớn của nhà thơ Quang Dũng. Trong giai đoạn đầu của nền thơ cách mạng cũng như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này, bút pháp hiện thực vẫn chi phối hầu hết các sáng tác. Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên... viết về người lính thời kỳ chống Pháp, từ lý tưởng chiến đấu đến khát vọng hiến dâng vẫn không khác gì người lính Tây Tiến. Nhưng phải đến Quang Dũng, người đọc mới thấy được vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa của người lính được tung tẩy dưới ngòi bút của thi nhân lãng mạn bậc thầy. Một bữa cơm nếp ở quê em Mai Châu sao mà nên thơ đến thế:

"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".

Một đêm văn nghệ ấm áp tình quân dân hồn nhiên, tươi tắn trong điệu khèn và khúc hát đắm say:

"Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".

Một cuộc vượt thác trong buổi chiều sương ở Châu Mộc tình tứ và nên thơ:

"Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".

Có lẽ, chính trên cái nền của cảm xúc "nhớ chơi vơi" về cảnh vật và con người miền Tây một trời kỷ niệm đã chi phối bút pháp và cảm hứng sáng tạo của Quang Dũng, giúp cho điệu hồn ông có được những câu thơ tài hoa và vi diệu đến không ngờ.

Bên cạnh thành công về mặt bút pháp, giọng điệu nghệ thuật cũng phản ánh vẻ đẹp riêng của bài thơ Tây Tiến. Chúng ta đều biết, tác phẩm văn học như là một "kết cấu các giọng điệu" (M.B. Khravchenko). Với tác phẩm thơ, chính giọng điệu lại càng định hướng cho người đọc tiếp cận nội dung tư tưởng. Nắm trúng giọng điệu thơ, tức là ta đã tìm ra chìa khóa để mở cánh cửa tâm hồn bước vào thi phẩm. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng chỉ với 34 câu thơ, được chia thành bốn đoạn, nhưng lại giàu sắc thái giọng điệu trên cái nền chính là giọng điệu nhớ thương tha thiết, bồi hồi về không gian núi rừng miền Tây hùng vĩ, thơ mộng và cuộc hành quân của binh đoàn Tây Tiến.

Hai câu thơ đầu mở ra một giọng điệu, đó là nỗi tha thiết, bồi hồi qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình tác giả:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Hai từ "xa rồi" chùng xuống trong nỗi mất mát, hụt hẫng. Thán từ "ơi!" với dấu chấm cảm (!) dội vào lòng người một nỗi nhớ thương tha thiết. Cụm từ "nhớ chơi vơi" như cụ thể hóa, định dạng cho nỗi nhớ nhung vốn dĩ vô hình. Từ "chơi vơi" với thanh âm ngân dài như nỗi hoài vọng, xót xa không dứt. Quả thế, chính tất cả các kỹ thuật thơ ấy đã góp phần tạo nên một giọng điệu chung đi xuyên suốt bài thơ. Từ giọng điệu thiết tha, bồi hồi lan tỏa từ đầu tác phẩm, tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể mà Quang Dũng có một giọng điệu riêng phù hợp. Vì vậy có thể nói rằng, Tây Tiến là bài thơ đa sắc thái về giọng điệu nhưng vẫn nằm trong một điệu tình chung của cảm xúc nhớ thương.

Nỗi nhớ đầu tiên là khung cảnh núi rừng miền Tây và hình ảnh người lính Tây Tiến hành quân trên cái nền của không gian hùng vĩ, dữ dội và nên thơ ấy. Cảm xúc tự nhiên dào dạt, nhà thơ không kìm nén được lòng mình, những câu thơ vào bài ngân nga một niềm tưởng vọng. Biết là không thể quay ngược về kỷ niệm nên giọng thơ càng tha thiết đến nghẹn ngào. Tây Tiến "xa rồi", tất cả chỉ còn trong hoài vọng, nên mỗi ngọn núi, đèo cao, vực sâu, thác dữ... được nhà thơ miêu tả như có linh hồn và thổn thức đến khắc khoải. Làn sương dày đặc như chôn lấp cả đoàn quân mỏi mệt ở Sài Khao hiện về trong ký ức rưng rưng: "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi". Cánh hoa mỏng manh hé nở trong đêm hơi sương ở Mường Lát vẫn dường như đang lan tỏa chút lạnh vào hồn người thương nhớ: "Mường Lát hoa về trong đêm hơi". Âm "ơi" vẫn ngân dài ám ảnh đến da diết, ngay cả phút hành quân gian khổ nhất của người lính Tây Tiến:

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".

Quả vậy, trong đoạn thơ đầu, giọng điệu bồi hồi, tha thiết như một dòng suối mát lành phả vào tâm hồn tác giả, tự nó cất lên thành tiếng, thành lời để khắc họa một bức tranh thiên nhiên miền Tây hoang vu, hùng vĩ và cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình. Giọng điều ấy càng da diết hơn ở cuối đoạn khi nhà thơ nhớ về một khung cảnh thanh bình, ấm áp tình quân dân giữa mùa nếp xôi ở Mai Châu quê em xinh đẹp:

"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".

Vẫn trên cái nền của cảm xúc hoài niệm qua giọng thơ bồi hồi, tha thiết, nhưng đến đoạn thơ thứ hai khi nhà thơ nhớ về một đêm văn nghệ lãng mạn và hào hoa trên nước bạn Lào, giọng điệu trở nên vui tươi, hồn nhiên hẳn lên. Chập chùng tiếng nhạc, điệu khèn trong ánh lửa hồng rực sáng của "đuốc hoa", những nàng thiếu nữ tròn trăng yểu điệu, e ấp múa hát say mê khiến cho người lính như trôi vào cõi thần tiên huyền nhiệm. Hào hứng và lãng mạn, âm điệu câu thơ bay vút giữa lòng người ấm nồng tình quân dân cá nước. Quang Dũng cũng như phần lớn người lính Tây Tiến vốn xuất thân nơi chốn phồn hoa, tuổi trẻ nhiều ước mơ, hoài bão, vượt qua bao nhiêu hiểm trở, thác ghềnh mới có được một đêm liên hoan văn nghệ vui tươi, hào hứng. Vì thế, tất cả tan hòa trong nhau, sum vầy và mê đắm. Những câu thơ vũ điệu sắc màu hòa trong nhịp điệu của tiếng nhạc lòng cất lên thành ra có cảm tưởng như muôn ngàn âm thanh trên khắp trần gian bay về hạ giới, đậu xuống giữa lòng Viên Chăn "xây hồn thơ". Chất lãng mạn, hào hoa trong cảm hứng nội dung hòa điệu với giọng thơ mang lại cho người đọc biết bao nỗi niềm cảm xúc khó quên, ngân nga điệu lòng đồng cảm của nhà thơ Quang Dũng.

Trong dòng cảm xúc nghẹn trào thương nhớ về đoàn quân Tây Tiến, niềm vui sum vầy trong đêm liên hoan văn nghệ đã mang lại một giọng điệu hồn nhiên, tươi trẻ; nhưng khi hồi ức về cảnh sông nước miền Tây qua cuộc phân li "người đi Châu Mộc chiều sương ấy", Quang Dũng lại khéo tạo ra một chất giọng bâng khuâng, man mác nỗi niềm, dù cả hai khổ thơ này đều nằm trong cùng nội dung cảm hứng hoài niệm, một vương vấn của tấc lòng nhớ nhung tha thiết. Sự đa dạng về giọng thơ đã tạo nên tính hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Vì vậy, phát hiện được chất giọng chính là góp phần giải mã nội dung tư tưởng thơ, cảm được điệu hồn và cảm hứng mà nhà thơ hướng đến. Hội ngộ rồi chia li, giờ đây đã thực sự xa đoàn quân Tây Tiến, qua hồi ức của mình, làm sao tác giả không rưng rưng nỗi "nhớ chơi vơi" về cảnh sông nước miền Tây mênh mang, xao xuyến:

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bên bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".

Các câu thơ cứ luyến láy vào nhau trong cách hiệp vần "ấy - thấy"; cấu trúc trùng điệp của phép lặp cú pháp: "Có thấy hồn lau...", "Có thấy dáng người..." càng tạo thêm nỗi buồn man mác của một chuyến rời xa. Ôi Châu Mộc! Ôi chiều sương! Ôi dáng người trên độc mộc!... Tất cả cứ nhạt nhòa trong sương khói, càng kiếm tìm, khao khát, nhớ nhung càng bâng khuâng và man mác một nỗi buồn của hồn thơ đa cảm.

Tây Tiến, như chúng ta biết, là bài thơ hay một cách trọn vẹn, không có câu thơ non lép. Tuy nhiên, đoạn thơ để lại ấn tượng sâu đậm nhất là đoạn khắc họa chân dung người lính Tây Tiến. Từ dáng vẻ bên ngoài đến tâm hồn, khát vọng hiến dâng cũng như sự hi sinh anh dũng, tất cả đều hiện lên một vẻ đẹp bi tráng. Ngoài nội dung thơ, giọng điệu nghệ thuật của đoạn thơ này có một giá trị hết sức độc đáo, gợi ra trong lòng người đọc một cảm xúc lớn lao, khó phai mờ trong tâm trí. Chính giọng điệu bi hùng, trang trọng đã tô điểm thêm bức chân dung người lính Tây Tiến.

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

Hai câu thơ trên là hai câu thơ khẳng định hình dáng kỳ lạ từ hiện thực gian khổ của cuộc trường chinh cứu nước mà người lính trải qua. Có điều cách viết, cách miêu tả chân dung ở đây thật khác thường. Chất giọng hùng hồn vang lên đã xua tan đi dáng vẻ xanh xao, bệnh tật. Đặc biệt, qua hình ảnh những nấm mồ "rải rác biên cương" mà những người lính xa xứ nằm lại đã gợi lên trong trái tim người đọc bao nỗi buồn thương về sự mất mát, hi sinh, là tiếng kêu xót xa, đứt ruột. Có điều, nhờ cách nói trang trọng qua giọng điệu và việc sử dụng các từ ngữ Hán Việt đúng lúc đúng chỗ: "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường", "độc hành"... đã nâng hình tượng người lính Tây Tiến lên thành vẻ đẹp bi tráng, hào hùng. Cùng với chiếc "áo bào" tiễn đưa các anh vào lòng đất mẹ, Quang Dũng cũng đã đắp "nấm mộ ngôn từ" một cách trang trọng nhất, thiêng liêng nhất với tất cả sự cung kính của mình để bất tử hóa hình tượng người lính Tây Tiến.

Khúc "độc hành" của dòng sống Mã "gầm thét" qua núi đồi, lũng sâu lúc các anh nằm lại đã trở thành giọng điệu bi thiết, hùng tráng đầy uất ức hờn căm mãi mãi đi vào bất tử. Sông Mã trở thành dòng sông oai linh âm vang lời nguyền cứu nước, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Lời nguyền ấy sang sảng như lời Hịch cứu nước của Người trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến". Vì vậy, có thể xem giọng điệu bi hùng, trang trọng là âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ này, nhờ đó góp phần khắc họa sâu sắc hơn hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng như ca khúc "Đoàn vệ quốc quân" hùng tráng một thời của Phan Huỳnh Điểu: "Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi/ Nào có sá chi đâu ngày trở về/ Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi/ Ra đi, ra đi thà chết chớ lui".

Kết thúc bài thơ Tây Tiến là giọng điệu tin yêu, da diết trong lời ước hẹn trở về. Bốn câu thơ kết bài khép lại mà mở ra mênh mang muôn ngàn khát vọng. Không hẹn ước trong cuộc chia phôi của đường xa vạn dặm, song trái tim những chàng trai "chưa trắng nợ anh hùng" vẫn không nguôi nỗi nhớ về Tây Tiến. Chính chất giọng tin yêu một cách trầm lắng là lời nguyền son sắt và thủy chung rất mực của người lính Tây Tiến anh hùng. Tây Tiến nhờ thế trở thành thi phẩm đẹp về tư tưởng, giàu giá trị nghệ thuật, trong đó giọng điệu đóng một vai trò không nhỏ.

Ngoài sự đa sắc thái về giọng điệu, tài năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả đã đưa Tây Tiến vượt lên để trở thành một đỉnh cao chói lọi, ngời sáng trên thi đàn dân tộc. Tây Tiến ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp và nền thơ cách mạng Việt Nam hãy còn non trẻ, sống bằng vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ, tác phẩm hội tụ rất nhiều yếu tố đan xen nhau thông qua bút pháp, giọng điệu và các đặc điểm nghệ thuật khác nên khó thể tách bạch từng yếu tố nhỏ để xem xét, đánh giá. Ở đây, chỉ phân tích hai phương diện nghệ thuật tiêu biểu là ngôn ngữ đậm chất hội họa và nhạc tính của bài thơ.

Chúng ta đều biết, một tác phẩm văn học bao giờ cũng lấy ngôn ngữ làm chất liệu, phương tiện để chuyển tải tư tưởng, cảm xúc. Vì vậy, ngôn ngữ trở thành yếu tố thứ nhất cực kỳ quan trọng để đánh giá sự thành công tác phẩm đó. Với thơ ca, trong điều kiện hàm súc của "ý tại ngôn ngoại" (ý ở ngoài lời), ngôn ngữ lại càng mang nét đặc thù hơn nữa, trở thành kiểu ngôn ngữ nghệ thuật "cao cấp" mà ở đó mỗi âm, mỗi chữ ngân vang như chuông vàng khánh ngọc, "đúc thành huân chương" (Pautôpxki), nó cô đọng và sáng lên lấp lánh khác thường so với ngôn ngữ đời sống hằng ngày.

(Nguồn: Doctailieu)

Xem thêm: Chữ người tử tù - Một văn phẩm gần đạt đến sự hoàn thiện, hoàn mỹ

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận