Chuyện vị công nữ có công thu phục các vùng đất phía Nam, mở mang bờ cõi nước Việt
Công nữ Ngọc Vạn là người có công giúp Đại Việt mở mang bờ cõi xuống phía Nam trong giai đoạn giữa thế kỷ XVII. Nhưng tiếc rằng, tên tuổi và cuộc đời của bà không được nhiều sử sách chép lại.
Công nữ Ngọc Vạn là con ai?
Công nữ Ngọc Vạn (Công nữ Ngọc Vạn) tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn hoặc Nguyễn Phúc Thị Ngọc Vạn. Bà sinh năm 1605, mất năm 1658, là con gái thứ 2 của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (ở ngôi: 1613 - 1635). Nhiều tài liệu trước đây thường ghi chép tước vị của nàng là công chúa, nhưng sự thật là công nữ, vì nàng là con của chúa Nguyễn.
Theo Wiki, công nữ Ngọc Vạn là con của chúa Nguyễn Phúc Nguyên và Hiếu Văn Hoàng hậu Mạc Thị Giai. Bà Mạc Thị Giai vốn là con của Mạc Kính Điển, cháu của Mạc Thái Tông Mạc Đăng Doanh. Ngọc Vạn có nhiều anh trai và chị gái ruột, trong đó có Nguyễn Phúc Lan (sau là chúa Thượng), Ngọc Liên, Ngọc Khoa.
Vào năm 1613, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đăng cơ. Để củng cố vương quyền của mình, ông đã giao hảo với các nước phương Nam, khi đó là Chiêm Thành và Chân Lạp.
Khoảng thời gian đó, triều đình Xiêm La gần như trực tiếp thống trị Chân Lạp. Vì vậy, khi lên ngôi, Chey Chetta II (ở ngôi: 1618-1628), liền cho xây dựng kinh đô mới ở Oudong (Vũng Long hay Long Úc) và cầu thân với chúa Nguyễn để chống lại sự khống chế của Xiêm La. Lúc này nước Đại Việt do vua Lê cai quản chỉ là hình thức, quyền hành thực sự nằm trong tay hai lực lượng chính là chúa Trịnh ở phía Bắc và chúa Nguyễn ở phía Nam.
Trong cuộc liên hôn chính trị này, công chúa Ngọc Vạn có công lớn trong việc giúp Đại Việt mở mang bờ cõi xuống phía Nam. Nhưng đáng tiếc, tên tuổi và cuộc đời của nàng không được nhiều sử sách ghi chép lại.
Song cũng có nhiều ý kiến cho rằng, sở dĩ, sử gia triều Nguyễn tránh nêu rõ những công trạng của công nữ Ngọc Vạn là vì trong quan niệm chính nhân quân tử, sẵn sàng chôn vùi và bỏ qua công lao to lớn của một người mang về cho đất nước, chỉ vì người ấy mang giới tính nữ.
Liên hôn cầu thân để 2 quốc gia phải nương tựa vào nhau
Ở phía Nam có chúa Nguyễn Phúc Nguyên nối ngôi tiên chúa Nguyễn Hoàng lúc vận nước khó khăn, trong khi vùng đất Ô, Rí có được nhờ Huyền Trân công chúa vốn khô cằn sỏi đá, thời tiết khắc nghiệt, mùa màng thất bát không đem lại nhiều lương thực. Chúa Sãi đã cho dời trấn phủ từ Dinh Cát (Quảng Trị) vào Kim Long (Thừa Thiên-Huế), tìm cách hòa hoãn với Chiêm Thành, Chân Lạp ở phương Nam để đối phó với chúa Trịnh ở phía Bắc.
Thế nên khi vua Chân Lạp Chey Cheta II ngỏ ý muốn hội kiến, chúa Sãi đồng ý ngay. Cuộc gặp gỡ đôi bên bàn đến việc tăng cường bang giao cũng như thông thương giữa hai nước.
Sau khi về nước, sứ bộ Chân Lạp đã mang lễ vật đến, chuyển thư của quốc vương ngỏ ý muốn tăng cường mối bang giao giữa hai nước hơn nữa bằng cách xin kết thân với con gái thứ 2 của chúa Sãi là Ngọc Vạn.
Đọc xong thư, chúa Sãi không khỏi phân vân, bởi vì Ngọc Vạn là con gái yêu, việc gả con cho một người dị tộc, dù là bậc vương giả cũng dẫn đến cảnh cha con xa cách, Ngọc Vạn phải sống cảnh tha hương nơi xứ người với khí hậu, phong tục tập quán, văn hóa khác biệt... Mặt khác, tương truyền Ngọc Vạn cũng đang có một mối lương duyên và đã hứa hôn với một chàng trai Việt là Trần Đình Huy, con một vị quan trong triều.
Khi đó, quân sư Đào Duy Từ đã cố gắng thuyết phục chúa Sãi nhớ tới chuyện Huyền Trân công chúa năm xưa, đừng bỏ lỡ cơ hội tiến về phía Nam, vận động Ngọc Vạn gác bỏ tình duyên lo chuyện đại sự quốc gia. Cuối cùng chúa Sãi thuận theo.
Mặc khác, đã là con gái gia đình Hoàng tộc, đương nhiên các công chúa phải gánh trên vai trọng trách đối với quốc gia xã tắc. Công nữ Ngọc Vạn cũng không tránh khỏi việc phải hy sinh hạnh phúc cá nhân để phò trợ đất nước.
Được biết, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên có 5 công chúa thì trưởng nữ Ngọc Liên được gả cho Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh, công chúa Ngọc Khoa gả cho người Nhật còn công nữ Ngọc Vạn gả cho Chân Lạp. Và mối liên hôn của bà với vua Chey Chetta II cũng nhằm mục đích tạo tiền đề cho sự mở rộng lãnh thổ của quốc gia sau này.
Mối giao hảo giữa hai nước đem lại nhiều lợi ích cho cả đôi bên. Chúa Sãi đã nhiều lần đưa quân vào giúp con rể chống lại sự xâm lược của nước Xiêm. Giáo sĩ người Ý tên Christopho Borri đã ghi lại trong cuốn hồi ký của ông xuất bản năm 1631 rằng: “Chúa Nguyễn luôn luyện tập binh sĩ và gửi quân đội giúp vua Chân Lạp, tức chàng rể chồng của con chúa. Chúa viện trợ cho vua Chân Lạp thuyền bè, binh lính để chống lại vua Xiêm...”.
Nhờ có sự trợ giúp thuyền binh của chúa Sãi, Chân Lạp lần đầu tiên trong suốt 100 năm đã đánh bại các cuộc xâm lăng của Xiêm La khiến nước này không còn dòm ngó Chân Lạp nữa, ngược lại người Việt cũng vào định cư rất nhiều ở phương Nam.
Công nữ Ngọc Vạn - cầu nối cho những cuộc di dân, mở mang đất Việt xuống phía Nam
Chuyện của Ngọc Vạn không hề được sử sách Việt Nam ghi chép. Đại Nam liệt truyện tiền biên ở phần các con của Sãi Vương chỉ ghi rằng “khuyết truyện”. Sách Nguyễn Phúc tộc thế phả ấn hành năm 1995 có ghi rằng Ngọc Vạn đã làm lễ thành hôn vào năm 1620, ước đoán khoảng 16 tuổi. Ngoài ra, việc tìm thấy những tài liệu ghi trong sử sách của người Kh’mer cũng như của người Pháp sau này đã góp phần làm sáng tỏ về cuộc đời công nữ Ngọc Vạn.
Dù không được sử sách trong nước ghi chép nhưng Ngọc Vạn vẫn được xác định là một người rất xinh đẹp. Bằng chứng này đã được nhiều người Pháp ghi lại. Ví dụ như Moura trong cuốn Royaume du Cambodge: “Tháng 3 năm 1618, Prea Chey Chessda được phong vương với tước hiệu Somdach Prea Chey Chessda Thiréach Réaméa Thupphdey Barommonpit. Lúc đó vua An Nam gả một người con gái cho vua Cao Miên. Công chúa này rất đẹp, được nhà vua yêu mến và lập làm hoàng hậu tước hiệu Somdach Prea Preaccac Vodey Prea Voreac Khsattey”. Hay như G. Maspéro cũng ghi lại trong cuốn L’ Empire Khmer: “Vị vua mới lên ngôi là Chey Chettha II cho xây một cung điện tại Oudong, ở đây ông làm lễ thành hôn với một công chúa con vua An Nam. Bà này rất xinh đẹp, về sau có ảnh hưởng lớn đến vua…”.
Mặc dù vua Chey Cheta II đã có trước đó hai vợ, hoàng hậu đầu là người Chân Lạp, người vợ thứ hai là người Lào nhưng ông vô cùng sủng ái Ngọc Vạn (biên niên sử Chân Lạp gọi bà là hoàng hậu Anga Cuv) vì bà không chỉ xinh đẹp mà còn thông minh, điềm đạm, sống mẫu mực, xứng với vai trò một bậc mẫu nghi thiên hạ. Do được giáo dục bởi văn hóa Phật giáo, dù là đại thừa nên bà cũng nhanh chóng hòa nhập với Phật giáo tiểu thừa của Chân Lạp.
Khi đến kinh đô Oudong, công nữ Ngọc Vạn mang theo đoàn tùy tùng hơn 500 người, có người sau đó làm những chức quan trọng yếu trong triều đình Chân Lạp. Ngọc Vạn còn lập xưởng thợ, mở cơ sở đóng thuyền, mở các nhà buôn quanh thủ đô Oudong, dần dà đã tạo thành hai làng người Việt sầm uất ở đó.
Đến năm 1623, chúa Sãi cử sứ bộ sang gặp Chey Cheta II đề nghị lập một dinh điền ở Mô Xoài (gần Bà Rịa) để khai hoang khẩn nghiệp, sau đó xin cho lập một đồn thuế ở Prei Kor (tức vùng Sài Gòn). Nhờ có sự vận động của công nữ Ngọc Vạn nên cả hai việc trên đều được vua Chân Lạp chấp thuận. Từ đó, chúa Nguyễn khuyến khích người Việt kéo vào lập nghiệp ngàng càng đông. Sau đó đưa cả quan quân vào lập đồn, đảm bảo an ninh tại địa phương do Ngọc Vạn đã xin chồng cho người Việt quyền tự trang bị vũ khí, bảo vệ đất đai.
Đến năm 1632, thời hạn các trạm thu thuế đã hết, công chúa Ngọc Vạn lại đề nghị quốc vương Chân Lạp cho phép gia hạn và được chấp thuận. Nhờ một tay Ngọc Vạn mà người Việt đã mở mang ở các vùng Đông Nam bộ. Do khác biệt văn hóa nên người Chân Lạp tự bỏ đi, không xảy ra xung đột gì lớn.
Chỉ trong vòng 5 năm từ ngày Ngọc Vạn kết hôn, người Việt đã sống trải dài từ Bà Rịa, Biên Hòa, Bến Nghé lên tới Châu Đốc đến tận Oudong (Phnom Penh). Đến cuối thế kỷ 17, khi Nguyễn Hữu Cảnh vào lập đất Gia Định thì số người Việt ở vùng này đã lên đến 200.000 người với bốn vạn hộ dân.
Biến cố ập đến, cuối đời xuất gia
Đến năm 1928, vua Chey Chetta II đã băng hà. Ngay sau đó chính trường Chân Lạp trở nên biến động dữ dội vì việc tranh đoạt ngôi vua.
Con của Chey Chetta II với Công nữ Ngọc Vạn là Chau Ponhea To lên kế vị vua cha theo truyền thống với sự phò tá của người chú là Preáh Outey. Nhưng Chau Ponhea To chỉ mới làm vua được 2 năm thì đã bị người chú Preáh Outey giết chết. Sau đó, con thứ 2 của Chey Chetta II với công nữ Ngọc Vạn tiếp tục lên ngôi vua lấy vương hiệu là Ponhea Nu. Đến năm 1640, vua Ponhea Nu đột ngột băng hà.
Chân Lạp liên tục trải qua khủng hoảng bởi các cuộc chém giết giành ngôi lẫn nhau của các hoàng thân. Tuy nhiên, Ngọc Vạn vẫn ở lại Chân Lạp để che chở cho các thần dân gốc Việt. Bà đã trở thành thái hậu và rất có uy tín trong triều đình, bất kỳ ai lên ngôi báu cũng đều nể vì bà và kể cả một số người thua cuộc trong cuộc tranh giành quyền lực cũng chạy đến tìm sự che chở của bà hay nhận lời khuyên.
Ngọc Vạn nhiều lần gợi ý họ cầu chứ chúa Hiền để đưa quân qua giúp dẹp loạn, ổn định lại vương triều. Mỗi lần nhờ vả chúa Nguyễn động binh, Chân Lạp lại phải đền đáp bằng những quyền lợi lãnh thổ.
Trải qua nhiều biến động, Chân Lạp dần suy yếu. Đến năm 1674 chia thành hai quốc gia và đều phải thần phục triều cống nhà Nguyễn. Ang Non (cháu Ngọc Vạn) làm nhị vương đóng đô ở gò Cây Mai (Sài Gòn) và sau này khi Ang Non chết thì toàn quyền cai trị đều đã thuộc về nhà Nguyễn.
Sau mấy chục năm ngự ngôi Hoàng Thái hậu của vương triều Chân Lạp, quá chán nản trước cảnh huynh đệ tương tàn, đến cuối đời Ngọc Vạn quyết định rời khỏi Chân Lạp quay về đất Việt. Tương truyền bà đã tìm về vùng Mô Xoài (Bà Rịa), vùng đất năm xưa là nơi khởi đầu cho người Việt dừng chân tìm miền đất mới. Bà lên núi Chứa Chan (nay thuộc Đồng Nai) để xuất gia. Chùa Gia Lào trên núi không rõ do bà lập nên hay là nơi tu hành, được cho là nơi ở cuối cùng của công nữ Ngọc Vạn tức hoàng thái hậu Anga Cuv trên trần thế này.
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận