Dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không thể giết được sức sống con người
“Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”.
ĐỀ BÀI:
Đề bài: Trong bài Cảm nghĩ về truyện “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài viết: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”. (Tác phẩm văn học 1930 – 1975, Tập hai, Nxb Khoa học xã hội, 1990, tr.71). Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (đoạn trích được học) của Tô Hoài để làm sáng tỏ nhận xét trên.
BÀI VIẾT GỢI Ý:
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông bước vào làng văn Việt Nam sớm nổi tiếng và thành công ở nhiều thể loại. Tô Hoài cho rằng: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước mình. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn sáng tác nhân chuyến đi thực tế ở Tây Bắc vào năm 1952. “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn rất thành công của Tô Hoài viết về con người vùng núi cao Tây Bắc. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị - người nô lệ đã đứng lên gỡ bỏ gông cùm, xiềng xích để đến với ánh sáng của tự do. Viết về nhân vật của mình, Tô Hoài tâm sự: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt”.
Mị là một nhân vật như thế! Nhân vật Mị trở thành đối tượng trung tâm – một nhân vật điển hình: cuộc đời của Mị có những thăng trầm, biến đổi có những biến cố mà đôi lúc ta tưởng chừng định mệnh bởi thế lực tội ác tàn bạo của cha con nhà thống lý đã làm cho Mị sống “Lay lắt đói khổ, nhục nhã” – số phận của cô gái ấy là con dâu gạt nợ. Nhưng cũng có lúc Mị đã vượt lên trên số phận, hoàn cảnh để vươn tới ánh sáng của sự sống, của tương lai, điều đó thể hiện qua sự bùng cháy của ý thức và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm cởi trói cho A Phủ. Như vậy, nội dung mà Tô Hoài muốn nói đến đó là ngợi ca sức sống của con người Tây Bắc thông qua nhân vật Mị. Tô Hoài giới thiệu Mị bằng một giọng kể như lời của cổ tích để đưa ta trở về với Tây Bắc xa xôi: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá… dù quay sợi, thái cỏ, dệt vải… cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Với từ ngữ miêu tả, nhà văn đã khắc chạm dáng vẻ lầm lũi, lam lũ, một số phận éo le đau khổ, một con người nhẫn nhục, cam chịu và bất lực trước số phận của mình. Giữa cảnh giàu sang, tấp nập của nhà thống lý hiện rõ cảnh một cô con dâu trừ nợ thật là tội nghiệp. Hai chữ “con dâu” vốn rất thiêng liêng ấy lại gắn liền với hai chữ “gạt nợ”. Nên cái thiêng liêng trở thành cái rẻ rúng mất rồi.
Mị đã từng là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Mị sinh ra trong một gia đình người nông dân nghèo khổ song được nuôi dưỡng từ bàn tay và tâm hồn của người nông dân thuần hậu, chất phác nên ở Mị hội tụ vẻ đẹp ở cả hình thức lẫn tâm hồn. Cô được ví như bông hoa – nơi hội tụ vẻ đẹp ban sơ của đại ngàn Tây Bắc: chăm chỉ, thật thà, hiếu thảo lại có tài thổi sáo giỏi. Ngày đêm có biết bao chàng trai thổi sáo đi theo Mị và khao khát có Mị. Với những phẩm chất tốt đẹp ấy, cô đáng được hưởng một cuộc đời hạnh phúc êm ấm. Nhưng trớ trêu thay gia đình Mị phải đeo đẳng món nợ truyền kiếp từ thời cha Mị cưới mẹ Mị không đủ tiền phải vay nhà thống lý Pá Tra. Món nợ ấy trút xuống đôi vai Mị và cũng từ đây cuộc đời Mị lật sang một trang mới – trang đời vô cùng đắng cay nghiệt ngã đó là sự “lay lắt đói khổ, nhục nhã”.
Thời gian đầu, Mị phản kháng quyết liệt: “có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc”. Mị đã từng nghĩ đến cái chết, ăn nắm lá ngón tự tử để thoát khỏi cuộc sống tủi nhục đau đớn ấy. Nhưng vì thương cha già, Mị đã ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ, hạnh phúc của mình để quay lại nhà thống lý sống kiếp trâu ngựa để vẹn tròn chữ hiếu. Và cũng từ đó, Mị bị đầy đọa về thể xác, Tô Hoài sử dụng liên tục phép so sánh để làm nổi bật lên nỗi thống khổ của kiếp dân trừ nợ. Bây giờ, Mị là con trâu, Mị là con ngựa, thậm chí Mị không bằng con trâu, con ngựa. Cuộc đời con người làm dâu nhà này thì chỉ biết đi sau đuôi con ngựa của chồng mình mà thôi. Kiếp đời Mị sao mà tê buốt thế? Lời văn của nhà văn Tô Hoài có vẻ lạnh lùng nhưng đầy thương xót. Mị càng chai sạn bao nhiêu thì trái tim người đọc càng mềm ra bấy nhiêu. Cô không thể nghĩ đến cái chết được nữa bởi vì cái địa ngục trần gian đã thổi héo cuộc đời cô. Không chỉ bị đầy đọa về thể xác mà Mị còn bị hành hạ về cả tinh thần. Hãy nhìn căn buồng hạnh phúc mà thống lý Pá Tra dành tặng cho Mị, căn buồng như địa ngục, ánh sáng của ô cửa bằng bàn tay càng làm cho Mị mất hết ý niệm về thời gian, không gian. Để rồi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Lòng Mị chai sạn, vô cảm, chỉ cúi mặt. Cuộc sống đầu tắt mặt tối đã chôn vùi mọi cảm xúc, suy nghĩ, ý thức nơi con người Mị, biến Mị thành một cái bóng vật vờ, lặng lẽ “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Đời Mị chìm trong tăm tối, câm lặng. Rõ ràng, cường quyền và thần quyền đè lên vai người con giá bị cúng ma nhà người cho bọn nhà giàu có quyền trong chế độ phong kiến đã làm cho Mị sống âm thầm, đau khổ. Đúng là “Lay lắt đói khổ, nhục nhã”. Có phải chăng vì đất nước và con người Tây Bắc để thương để nhớ, cho nên nhà văn dõi theo từng bước chân Mị để tìm thấy chất ngọc ẩn chứa trong bề sâu tâm hồn cô. Vì thế, nhà văn Tô Hoài đã tâm sự: Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đau đớn, Mị vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Giữa cảnh mùa xuân núi rừng Tây Bắc, Mị nhớ và sống lại những mùa xuân quá khứ. Tiếng sáo đã đánh thức trong Mị - cô gái của ngày nào. Tiếng sáo ấy khiến cho Mị “thiết tha bồi hồi” và bật lên trong Mị mấy câu ca quen thuộc ngày nào: “Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta chưa có con trai con gái Ta đi tìm người yêu”. Tâm hồn Mị lúc này như cây khô gặp mưa xuân như đâm chồi nảy lộc. Tâm hồn Mị có muôn vàn những sợi giây tơ giăng mắc khắp không gian . Lời của bài hát vọng lên trong tiếng sáo như: “Ái tình ghé môi gọi lời trong gió” (Xuân Diệu) đưa Mị trở về với tuổi thanh xuân để lần đầu tiên, giữa mảnh đất chết này, Mị nhận thấy mình: “Mị còn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Chi tiết ấy đã thể hiện khát vọng sống mạnh mẽ, mãnh liệt trong Mị. Khát vọng vượt ngục có ai ngờ lại xuất hiện trong một con người tưởng chừng như đã nguội lạnh. Nó bao trùm lên tâm trí Mị để trở thành sức mạnh phục sinh. Đó là lúc mà khát vọng sống lớn hơn mọi nỗi sợ hãi khiến Mị hành động gấp gáp: “Mị cuốn lại tóc. Mị lấy cái váy hoa giắt ở phía trong vách… Mị rút thêm cái áo”.
Mị là một con người nên có quyền được làm người. Thế nhưng, sự độc ác của A Sử đã chặn đứng cái quyền được làm người vừa nhóm lên trong Mị, hắn vùi dập chẳng thương tiếc với một thúng sợi đay trói nghiến Mị vào cột nhà. Mị thấy sợ - sợ chết. Mà “sợ chết” là biểu hiện cao độ nhất của lòng ham sống. Đó chính là sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Ngọn lửa của lòng ham sống ấy đã bị dập tắt một cách phũ phàng nhưng dư vang của nó vẫn ngưng đọng trong tâm hồn. Cái đêm mùa xuân ấy càng nhấn sâu vào vết thương lòng trong cuộc đời Mị. Dẫu biết rằng đốm lửa vẫn âm ỉ trong lòng Mị. Khát vọng ấy trong Mị là những đợt sóng ngầm nhưng nó sẽ trỗi dậy ngày mai để trở thành sóng thần để cuốn đi bao tủi nhục của hôm nay. Khi mâu thuẫn giữa thực tại phũ phàng và khát vọng sống tự do lên đỉnh điểm, thì tác giả đã cởi nút bằng cách đưa nhân vật A Phủ vào truyện. A Phủ là chàng trai mồ côi, chỉ vì dũng cảm liều sống chết để bảo vệ lẽ phải mà đã phải thành kẻ tôi đòi trong nhà Thống lý Pá Tra, rồi cũng bị trói đứng vào cột thay mạng cho con bò nhà Thống lý Pá Tra, chờ chết. Mị thấy thương người cùng cảnh ngộ. Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai má đã xám đen lại của A Phủ đã hối thúc Mị phải hành động. Dòng nước mắt của người nô lệ ấy đã khơi dậy lòng thương người bị vùi lấp trong Mị. Từ vô cảm đến đồng cảm. Mị thấy thương mình vì Mị cũng đã từng bị chúng nó bắt về trình ma nhà này, đã từng bị trói trong một đêm mùa xuân đầy khát vọng. Vậy nên, Mị hiểu chàng trai vô tội kia, sao lại phải chết như thế?
Từ tấm lòng của người phụ nữ có lòng thương người, cảm thông với người cùng cảnh ngộ đến sự uất hận căm ghét kẻ thù độc ác đã thúc đẩy Mị cầm dao cắt trói cho A Phủ. Hành động ấy thể hiện khát vọng sống, ngọn lửa yêu thương sự sống mãnh liệt đã cháy bùng lên trong con người của Mị. Sau phút hoảng loạn của hành động liều lĩnh, đơn độc, manh động, Mị đã đưa ra quyết định chớp nhoáng: chạy theo A Phủ. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt, lòng khao khát cuộc sống tự do đã chỉ đường cho hành động của Mị. Hình ảnh của Mị chứa đựng một sức sống “tiềm tàng, mãnh liệt” đúng như lời nhận xét của tác giả. Qua nhân vật Mị và A Phủ, nhà văn đã góp một tiếng nói nhân văn cao đẹp bênh vực quyền sống cho con người lao động miền núi dưới ách đô hộ của chủ nô phong kiến và lũ Tây đồn. Đó là cuộc đấu tranh từ tự phát lên tự giác để họ đến với cách mạng và tự giải phóng cuộc đời mình.
Mị là nhân vật tiêu biểu cho nỗi thống khổ của người nông dân vùng núi Tây Bắc bị tước đoạt tuổi xuân, vùi dập khát vọng đầy đọa thể xác lẫn tinh thần. Hiện thực về nỗi thống khổ ấy làm nhức nhối và đánh thức thiên chức của nhà văn. Vì vậy, viết về nỗi thống khổ của Mị, Tô Hoài viết bằng cả trái tim, tình yêu thương của mình, đồng cảm với nỗi khổ và đi từ nỗi khổ ấy nhà văn đã tìm kiếm vẻ đẹp tâm hồn còn tiềm ẩn trong những người nông dân Tây Bắc chăm chỉ, thật thà và tội nghiệp kia. Vẻ đẹp tiềm ẩn của con người Tây Bắc cũng như sức sống của đại ngàn Tây Bắc sẽ là nơi đến của những nghệ sĩ có tài, có tâm như Tô Hoài.
Xem thêm: Giá trị hiện thực và nhân đạo quyện hòa trong truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận