Cận cảnh "cổ vật xứ đông" - thanh long đao nức tiếng hơn 500 năm tuổi của vua Mạc Đăng Dung
Năm xưa, cầm trên tay binh khí Định Nam đao, Mạc Đăng Dung đã dẹp loạn thành công, yên định "nam quốc sơn hà" sau hơn 20 năm đại loạn.
Mạc Thái Tổ (莫太祖) tên thật là Mạc Đăng Dung (莫登庸) là vị hoàng đế lập ra triều đại nhà Mạc trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông là người đóng vai trò quan trọng trong việc đánh dẹp đại loạn, tiêu diệt các thế lực cát cứ, chống đối triều đình. Mạc Đăng Dung cũng là người loại bỏ ảnh hưởng của những ai ủng hộ nhà Lê, cứng rắn đối đầu với những thế lực phò vua Lê ở Thanh Hóa.
Mạc Đăng Dung bắt đầu làm quan triều Lê Uy Mục sau khi thi đậu Võ trạng nguyên ở cuộc thi tuyển võ sĩ tại Giảng Võ đường, Thăng Long. Ban đầu, ông chỉ là Túc Vệ đi theo vác lọng hầu vua, làm quan cấp thấp dưới thời vua Lê, năm 25 tuổi được phong làm Đô Chỉ huy sứ vệ Thiên Vũ. Đến năm 1527, Mạc Đăng Dung đã vươn tới đỉnh cao quyền lực ở tuổi 44 khi trở thành Thái sư tước an Hưng vương thời vua Lê Cung Hoàng.
Gắn bó với ông kể từ khi bắt đầu làm quan cho tới lúc lên làm vua lập ra triều Mạc, đánh dẹp các thế lực chống đối là một thanh đại long đao tên "Định Nam đao" (定南刀). Định Nam đao là loại đại long đao, có kích thước dài và lớn hơn mức trung bình, được cất giữ như vật gia bảo dòng họ Phạm gốc Mạc tại Nam Định.
Truyền thuyết về thanh long đao uy quyền một thời
Tương truyền, một người thợ rèn bí ẩn sau khi thấy tướng mạo khác thường của Mạc Đăng Dung đã rèn cho thanh niên này một thanh long đao. Người thợ rèn ấy cho rằng họ Mạc sẽ làm nên nghiệp lớn nhờ con đường võ học, thậm chí có thể trở thành thiên tử. Sau khi rèn xong, thợ rèn bí ẩn nọ để lại cây long đao, kèm theo bài kệ có đại ý rằng: "Cơ nghiệp sẽ dựng nên từ đây, cây đao này chỉ dành cho người có duyên, dùng nó sẽ làm nên sự lớn".
Với binh khí này, Mạc Đăng Dung đã trúng Võ trạng nguyên, sung quân Túc vệ. Sau này, ông tham gia các cuộc dẹp loạn phe phái ở Thái Nguyên, Lạng Sơn, Thanh Hóa... và liên tục lập nhiều công lớn. Trong khoảng 20 năm, Mạc Đăng Dung lần lượt được phong tước bá (Vũ Xuyên bá), hầu (Vũ Xuyên hầu), công (Minh quận công rồi Nhân quốc công), vương (An Hưng vương).
Tháng 6/1527, hoàng đế Lê Cung Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho Thái sư Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung lên làm vua, lập ra triều Mạc, xưng là Mạc Thái Tổ, niên hiệu Minh Đức. Năm 1529, ông nhường ngôi cho con trai là Mạc Đăng Doanh, lui về làm Thái Thượng hoàng. Hơn 10 năm sau, Mạc Thái tổ qua đời, thanh long đao được đưa về quê ông và thờ tại lăng miếu làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, phủ Kim Môn, trấn Hải Dương (nay là làng Cổ trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy).
Sau này, vật báu của vua Mạc Thái Tổ được tìm thấy vào năm 1938, khi dòng họ Phạm gốc Mạc làng Ngọc Tỉnh tôn tạo từ đường, đào hồ bán nguyệt. Tương truyền, khi chưa tìm ra thanh long đao, phía gò đất ở đông nam từ đường thường xuyên "phát hỏa", lửa tự nhiên bốc cháy rồi tự tắt Do đó, dân trong vùng gọi nơi ấy là gò Con Hỏa.
Kể từ lúc đào được long đao, gò Công Hỏa không còn phát hỏa nữa. Con cháu họ Phạm gốc Mạc rước đao về từ đường thờ phụng, bảo quản kĩ lưỡng và bảo vệ nghiêm ngặt để tránh bị những kẻ trộm cổ vật nhòm ngó.
Số phận chìm nổi của một trong hai long đao của quân vương châu Á
Hiện tại, thanh long đao của được cho là của vua Mạc Đăng Dung được thờ ở hậu cung nhà Thái miếu. Trưởng ban quản lý khu tưởng niệm Vương triều Mạc (xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng), ông Ngô Minh Khiêm cho biết, thanh long đao được làm bằng sắt, nay đã bị han gỉ nham nhở.
Vật báu ấy nặng khoảng 25,6kg, dài 2,55m, lưỡi đao dài 0,95m, cán làm bằng sắt rỗng. Dọc sống đao có nhiều nét hoa văn lạ, đến nay vẫn chưa thể lý giải. Đoạn nối giữa cán vào lưỡi đao là một hình đầu rồng lằm bằng đồng thau, miệng há nuốt lấy đao.
Được biết, vào năm 1592, sau khi nhà Mạc thất thủ ở Thăng Long, cháu 4 đời của Thái thượng hoàng là Mạc Đăng Thuận vốn coi giữ lăng miếu đã mang long đao đi nơi khác. Đoàn thuyền rời Đồ Sơn, tiến về phía Nam vào vùng cửa sông Hồng, tới cửa Lạn Môn thì dừng lại rồi định cư ở đất Kiên Lao. Nghe theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Mạc Đăng Thuận cùng gia quyến đổi sang họ Phạm để tránh bị nhà Trịnh truy sát. Để làm dấu cho con cháu đời sau, họ giữ lại bộ thảo đầu của chữ Mạc.
Sau 4 đời ở vùng Kiên Lao, dòng họ Phạm gốc Mạc đã có sự phân chi mạnh. Ông Phạm Công Úc nhận nhiệm vụ mang đại long đao về vùng Ngọc Tỉnh, thờ tại từ đường chi học Phạm gốc Mạc. Theo gia phả dòng họ, dưới thời vua Lê Dụ Tông, hai con trai của ông là Phạm Công Dục và Phạm Công Dắt lên kinh đô thi võ.
Trước khi đi thi, hai vị này xin ông Phạm Công Úc cho phép được làm lễ rước thanh long đao, cầu mong tiên đế và linh khí bảo đao phù trợ. Ở khoa thi ấy, cả hai vị đều đỗ võ quan, được triều đình tuyển dụng. Phạm Công Dụng phò tá vua Lê dẹp loạn, sau được phong chức Đô thống phủ Tả đô đốc Kiệt trung tướng quân, tước Dục Trung hầu. Còn vị Phạm Công Dắt cũng được vua phong là Quản Hữu chấn cơ Tín nghĩa Đô úy, tước Phạm Sứ hầu.
Năm 1821, Phan Bá Vành có ý khởi binh, chống lại triều đình vua Minh Mạng, muốn được dùng long đao của Mạc Đăng Dung làm linh khí trên chiến trường. Thấy vậy, dòng họ Phạm gốc Mạc ở Ngọc Tỉnh đã chôn giấu Định Nam đao quyết không để mất. Sau nhiều năm, dấu tích chôn đao không còn, thanh long đao mất tích từ đây, mãi đến khi đào hồ bán nguyệt mới thấy.
Ngày 22/9/2020, Định Nam đao của Mạc Thái tổ được trở về quê hương khi chi Phạm gốc Mạc ở làng Ngọc Tỉnh làm lễ, rước vật báu này về khu tưởng niệm Vương triều Mạc, đúng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Cũng trong thời gian này, thanh long đao được công nhận là một bảo vật quốc gia của Việt Nam.
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận