Bộ ảnh có "1 - 0 - 2" về kiến trúc cầu ngói “thượng gia, hạ kiều” trên mọi nẻo đường đất Việt xưa
Cầu ngói là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam để nói về một kiểu cầu có mái che lợp ngói, còn gọi là “thượng gia hạ kiều”, là hình thức kiến trúc giao thông truyền thống đặc biệt ở nước ta. Về thể loại, cầu ngói thuộc loại cầu có mái che (covered bridge).
Trước đây, cầu ngói là một dạng công trình khá phổ biến ở những nơi giao thương sông nước, nhưng bởi nhiều lý do mà chúng bị phá hủy, hiện nay chỉ còn lại với số lượng trên đầu ngón tay, trong đó có Chùa Cầu, cầu Thanh Toàn được bảo tồn tốt để phục vụ du lịch, còn một số cầu khác đang bị xuống cấp và chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, sự bảo vệ đúng cách. Cầu ngói là di sản kiến trúc giao thông rất đáng quý mà cha ông đã để lại cho chúng ta, cần sự nghiên cứu có hệ thống và nghiêm túc, nhằm tôn vinh, bảo tồn và phát huy giá trị của chúng.
Dưới đây là bộ ảnh hiếm về những cây cầu ngói khi xưa trải khắp mọi nẻo đất Việt:
Chùa Cầu ở Hội an do người Nhật xây dựng năm 1593.
Tại Faifo (Hội An), vào thời này, có hẳn hai khu vực cư ngụ và buôn bán riêng biệt; một khu vực của người Hoa và một khu vực của người Nhật, chia cách nhau bởi chiếc cầu Nhật Bản có mái che do người Nhật xây dựng năm 1593, nay vẫn còn nguyên trạng. Cầu lợp ngói để che mưa nắng cho người lưu thông trên đó nên vào thời kỳ đầu, cư dân địa phương gọi một cách đơn giản là Cầu Ngói, về sau, căn cứ vào sự hiện diện của một ngôi chùa nhỏ trên cầu, người ta gọi chung là Chùa Cầu. Riêng người Pháp gọi là Pont japonais (cầu Nhật Bản) hay Pont couvert (cầu có mái che).
Năm 1719, trong dịp vào thăm Hội An, Chúa Nguyễn Phúc Chu đã đặt tên “Lai viễn kiều” cho Chùa Cầu ngụ ý rằng cây cầu như một biểu tượng của chính sách ngoại giao, thương mại cởi mở, luôn cầu khách phương xa đến (một tài liệu của người Pháp đã nhầm khi viết rằng người đến thăm cầu là vua Lê Hiển Tông, do sự trùng hợp giữa miếu hiệu Hiển Tông của vua Lê và miếu hiệu Hiển Tông của chúa Nguyễn Phúc Chu).
Ở một đầu cầu Nhật Bản , người Nhật đắp tượng hai con chó bằng đất trong tư thế ngồi xổm, đầu cầu bên kia là tượng hai con khỉ. Căn cứ vào chi tiết này, một vài tài liệu giải thích rằng cầu được khởi công xây dựng vào năm Thân và hoàn thành vào năm Tuất, tức hai năm sau đó. Lời giải thích trên hoàn toàn sai lạc, vì cầu được xây dựng vào năm 1593 (chi tiết này không bị ai phản bác) là năm Quý Tỵ, không liên quan gì đến các năm Thân, Dậu, Tuất cả.
Riêng ngôi chùa nhỏ trên cầu có tên là Bắc Đế Trấn Vũ, thờ một viên tướng Tàu, còn được gọi là Huyền Thiên Đại đế, do các bang hội người Hoa ở Minh Hương xã lo việc thờ cúng. Hàng năm, lễ hội dành cho vị thần này diễn ra vào ngày 20 tháng 7 âm lịch. Căn cứ vào những chữ đại tự trên rầm cầu, được biết vào năm Gia Long thứ 16 (1817), các quan lại, bô lão, bang trưởng và cư dân làng Minh hương đã tiến hành việc trùng tu cầu. Công việc này được tiếp tục vào những năm 1823, 1875 và đến năm 1915, một cuộc trùng tu toàn diện chiếc cầu được tiến hành với những chi tiết trang trí còn tìm thấy ngày nay. Ngôi chùa nhỏ bị hư hại trong một cơn bão trước đó vài năm, đến những tháng đầu năm 1917 mới được tái thiết.
Cầu ngói chùa Lương
Thuộc tỉnh Nam Định, cầu ngói chùa Lương thuộc xã Hải Anh, huyện Hải Hậu. Cầu bắc ngang sông Trung Giang, cách chùa Lương khoảng 100m.
Toàn bộ cầu gồm 9 gian, với 40 cột tròn, tất cả bằng gỗ lim, hai bên hai dãy hành lang dài làm ghế nghỉ chân. Cầu được bắc trên 18 cột đá hình vuông to đẹp; với hệ thống cột xà dầm, bố cục chặt chẽ, gia công tỉ mỷ, đạt trình độ kỹ thuật, mỹ thuật rất cao, khéo léo tạo bộ khung nhà cầu cong cong uốn lượn mềm mại, mái ngói hình mũi hài âm dương trông như con rồng duyên dáng đang vươn mình bay lên.
Cầu tuy chạm, khắc đơn giản song thể hiện hài hoà nét kiến trúc cổ truyền. Hệ thống mái nhà cầu được lợp bằng ngói vảy rồng, có hình mũi hài âm dương, nhìn từ xa sẽ thấy tựa hình con rồng đang vươn mình bay lên. Chính sự mềm mại, uyển chuyển trong lối kiến trúc đã tạo cho cầu ngói chùa Lương sự tinh tế, khác biệt so với những cây cầu ở các nơi khác.
Cầu là nơi đi lại và dừng chân để khách bộ hành nghỉ ngơi, ngắm cảnh sông nước, làng quê.
Chùa Thầy là một nhóm những ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng – Hòa Lạc. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Đinh. Đây từng là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật Tích.
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận