Ông tổ nghề thêu Lê Công Hành: Học nghề sau lần đi sứ phương Bắc về truyền lại cho dân

Sau khi bị triều đình phương Bắc nhốt trên lầu cao để thử tài, Lê Công Hành đã tỉ mẩn dỡ từng đường chỉ thêu trên tấm nghi môn để tìm hiểu kỹ thuật thêu và cách làm lọng, sau đó về truyền lại cho dân.

Thùy Nguyễn
16:30 29/08/2021 Thùy Nguyễn
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Bộc lộ trí thông minh ngay từ nhỏ

Lê Công Hành tên khai sinh là Trần Quốc Khái, sinh năm 1606 tại xã xã Quất Động, tổng Bình Lăng, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ (nay là thôn Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Nội). Ông mất ngày 12/6/1661, thọ 56 tuổi. Hàng năm, vào ngày giỗ của ông mọi người vẫn tổ chức trang trọng với tư cách ngày giỗ tổ nghề thêu.

Chuyện kể rằng khi còn nhỏ, cậu bé Khái đã rất thông minh và ham học hỏi. Cậu học cả khi đốn củi, kéo vó tôm, tối về bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng lấy ánh sáng để đọc sách. Học đến đâu thuộc đến đấy, Khái nhanh chóng nổi tiếng hay chữ cả một vùng.

cau-chuyen-di-su-phuong-bac-cua-ong-to-nghe-theu-le-cong-hanh-1
Ông tổ nghề thêu Lê Công Hành

Đến năm 18 tuổi, tất cả thanh niên trai tráng trong làng bị bắt đi phụ đắp đê sông Hồng. Thế nhưng Khái lại bị phạt phải chôn chân ở mặt đê từ sáng tới trưa vì sức yếu không vác nổi. Một viên quan đi qua thấy thanh niên mặt mũi khôi ngô đang đứng chịu phạt liền hỏi: “Ngươi bị tội gì mà phải chôn chân?” thì Khái thành thật trả lời: “Tôi là học trò, không vác nổi những hòn đất đá to nên bị phạt”.

Nghe là học trò, viên quan liền ra một vế đối, nếu Khái giải được thì sẽ tha phạt. Vế đối như sau: “Ông quan thị, cắm đường cái tiêu, trị hồng thủy, cho dân được cậy”. Vế ra gồm có tên 4 thứ là quả thị, chuối tiêu, hồng và quả cậy, ai ngờ Khái đối lại ngay: “Trai Quất Động, thi đỗ bảng nhãn, phù quân vương, phỉ chí mới cam” cũng đủ 4 thứ quả quýt, nhãn, bồ quân và cam. Nghe xong, viên quan gật đầu khen ngợi, từ đó Khái càng thêm nổi tiếng về việc hay chữ nghĩa.

Học nghề khi đi sứ phương Bắc về truyền lại cho dân

Nhờ vốn chữ nghĩa đầy mình, sau này ông thi đỗ tiến sĩ đời vua Lê Chân Tông. Năm 1646, Lê Công Hành được cử đi sứ nhà Minh và liên tục bị ‘đối phương’ làm khó để thử tài.

Đầu tiên, quan quân nhà Minh không dẫn ông đi đường chính mà lại đi đường tắt. Khi đến một vùng rừng núi và thung lũng thì hết lương ăn. Ngay lập tức, ông bèn cho chặt tre đan thành dậm, sai quân xuống cá và lên rừng tìm trái cây. Nhờ cách của Lê Công Hành, đoàn sứ đi bộ vẫn khỏe mạnh như thường dù qua đường núi khó khăn, trắc trở.

Đến khi hoàn thành công việc ngoại giao, vua Minh lại muốn thử tài sứ thần nước ta một lần nữa. Vua cho người dựng một cái lầu cao chót vót, mời Lê Công Hành lên thưởng cảnh. Khi ông lên đến nơi thì quân Minh ở dưới cất thang đi, suốt một ngày không hề có ai mang cơm nước đến.

Trên lầu chỉ có cái bàn thờ, phía trước là 2 cái lọng xanh đỏ đẹp mắt, treo bức nghi môn diềm màn thêu rồng phượng và nổi 3 chữ “Phật tại tâm” (Phật ở trong lòng). Giữa bệ bàn thờ là ông Phật Di lặc bụng to, sơn đen. Dưới chân bệ là cái chum to đựng nước cúng, trong góc có 1 con dao, 2 cây tre, không hề có thức ăn.

cau-chuyen-di-su-phuong-bac-cua-ong-to-nghe-theu-le-cong-hanh-2
Ông Lê Công Hành là người giúp nghề thêu ở nước ta phát triển

Một ngày trôi qua, bụng đói cồn cào mà chỉ có nước uống cầm hơi, ông nghĩ rằng có nước chắc phải có đồ ăn. Quay ra ngắm bức tượng, ông tò mò xem nó làm bằng gì nên lấy tay cậy vào lưng Phật thì thấy bật ra một mảng con, bóp vụn ra được như bột, đưa miệng nếm thì có vị ngọt. Hóa ra bức tượng Phật làm từ bột bánh khảo. Thế là từ đó, ông bẻ dần tượng Phật ra ăn ngày 2 bữa.

Ngồi không cũng buồn, ông liền chẻ tre, vót nan, quan sát kỹ cách làm lọng. Sau khi biết cách làm, ông hạ bức trướng xuống, tháo các đường chỉ kim tuyến để xem cách thêu rồi thêu lại. Sau khi uống gần hết chum nước và ăn hết pho tượng, ông tìm cách đi xuống. Buổi chiều, ông nhìn lên trời thấy những con dơi xòe cánh chao liệng như chiếc lá. Nghĩ một lúc, ông cầm 2 cái lọng cắm ở trên lầu, sau đó nhảy xuống đất bình an vô sự.

Trước tài trí của ông, triều đình nhà Minh vô cùng kính phục, bày tiệc lớn tiễn sứ đoàn về nước. Sau đó, ông được phong tước, thăng lên chức Công bộ thượng thư thái bảo, được đổi họ Lê và có tên là Lê Công Hành. Ông đem nghề thêu dạy cho dân làng Quất Động, sau đó dần phát triển sang các làng khác ở tỉnh Hà Đông cũ như Đông Cứu (Huyện Thường Tín), Thọ Nam (huyện Hoài Đức), Đại Nghĩa (huyện Thường Tín) rồi lan sang các tỉnh khác như Bắc Ninh, Hưng Yên...

Ông Lê Công Hành còn dạy một số làng nghề làm lọng. Dù người Việt từng biết đến thêu và làm lọng từ trước, nhưng chỉ đến khi Lê Công Hành truyền nghề, thì các nghề này ở nước ta mới phát triển, do đó người ta gọi ông là ‘ông tổ nghề thêu’.

Xem thêm: Người duy nhất của triều Nguyễn "thà chết không chịu làm vua" là ai?

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận