Nguồn gốc và ý nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh

Bát Nhã Tâm Kinh là cuốn kinh nhật tụng trong các khóa lễ, không những dành cho hàng Phật tử xuất gia, mà hầu hết Phật tử tại gia cũng đều thuộc nằm lòng. Nguồn gốc, ý nghĩa, nội dung của Bát Nhã Tâm Kinh là gì? Cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.

Loan Nguyễn
13:15 15/06/2021 Loan Nguyễn
Sống Đẹp
Nguồn: Internet

Nguồn gốc của Bát Nhã Tâm Kinh

Bát Nhã Tâm Kinh là tên gọi tắt của Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh được chuyển âm từ chữ Phạn Maha Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra, Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra, tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心.

Đây là cuốn kinh nhật tụng trong các khóa lễ, không những dành cho hàng Phật tử xuất gia, mà hầu hết Phật tử tại gia cũng đều thuộc nằm lòng.

Bát Nhã Tâm Kinh là cuốn Kinh cô đọng nhất, xúc tích nhất, vì toàn bộ Kinh chỉ có gồm 262 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ Kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn.

Quyển Kinh này do Ngài Huyền Trang dịch ra chữ Hán để làm phương châm cho các Thiền gia tu học. Kinh này được hầu hết các Phật tử tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng, và Trung Quốc biết đến và rất thường dùng trong việc đọc tụng.

nguon-goc-va-y-nghia-cua-bat-nha-tam-kinh-1

Vào khoảng thế kỷ thứ 7, ngài Trần Huyền Trang là một cao tăng đời nhà Đường, Trung Hoa đã vượt biên giới sang Ấn Độ thỉnh kinh. Khi trở về nước, ngài viết quyển "Tây Du Ký" ghi lại những chi tiết xảy ra trong suốt thời gian 12 năm chu du khắp Ấn Độ từ Bắc xuống Nam và qua tới Tích Lan. Trong đó, có sự kiện trên đường đi ngài đã trải qua nhiều gian nan khổ cực, tưởng như đã mất mạng khi bị lạc vào sa mạc bảo cát, may nhờ gặp một người áo trắng dạy bài Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Ấn Độ, ngài đã tụng đọc và thoát chết. Sau cùng đến được Ấn Độ bình an. Qua sự kiện này, người ta đoán vị áo trắng đó là Đức Quan-Thế-Âm Bồ Tát.

Bài Bát Nhã Tâm Kinh là bài kinh thuộc hệ Phát Triển, viết bằng tiếng Sanskrit là bài kinh quan trọng chủ yếu nên người ta gọi là trái tim (Tâm Kinh), được dịch sang Hoa văn rồi lan truyền khắp các nước Đông Nam Á, tính đến nay đã trải qua gần 19 thế kỷ.

Xem lại nguồn gốc lịch sử chúng ta thấy rằng hệ thống kinh Bát Nhã rất đồ sộ, hơn 600 quyển gồm nhiều bài thi kệ nhưng không đề tên tác giả. Người ta chỉ biết rằng hệ thống kinh Bát Nhã Ba-La-Mật phát xuất từ miền Nam Ấn trước Công Nguyên.

Trong lịch sử Phật giáo có một sự kiện có thể cho chúng ta một chút suy đoán về nguồn gốc của hệ Bát Nhã Ba La Mật.

Khoảng 236 năm, sau khi Đức Phật nhập diệt, nước Ấn Độ dưới sự cai trị của vua A-Dục, là vị vua rất sùng mộ đạo Phật, đã hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển Phật giáo cũng như nhiều tôn giáo khác.

Vào thời đó có một vị cao tăng là ngài Đại Thiên, trụ trì tại một ngôi chùa lớn ở kinh đô rất giỏi Phật pháp. Một lần trong buổi thuyết pháp có đông đảo người tham dự, ngài Đại Thiên đã tuyên bố: "Những ai thuyết pháp giỏi đúng với chân ý Đức Phật thì người đó có quyền viết kinh!".  Lời công bố này được một số người trẻ tán thành, nhưng cũng có nhiều người phản đối. Rốt cuộc vấn đề này không được giải quyết ổn thoả, ngay cả vua A-Dục và Hoàng Hậu, dù hết sức ủng hộ ngài Đại Thiên cũng bó tay, không thể giải quyết được vấn đề trọng đại này. Sau đó, ngài Đại Thiên cùng đệ tử xuống miền Nam Ấn giáo hoá và thành lập nên hệ Bát-Nhã. Đó là lý do tại sao hệ thống kinh Bát Nhã Ba-La-Mật xuất phát từ miền Nam Ấn. Hệ thống kinh này trải qua nhiều thời đại, kéo dài mấy trăm năm, các vị Tổ đã lần lượt sáng tác các bộ kinh được xếp vào hệ thống kinh Bát Nhã nhưng không có bộ kinh nào đề tên tác giả.

Nhìn chung hệ thống kinh Bát Nhã đề cao tư tưởng KHÔNG và CHÂN NHƯ. Các vị Tổ lấy TÁNH KHÔNG và CHÂN NHƯ làm nền tảng để tu tập, tiến đến thể nhập KHÔNG và thể nhập CHÂN NHƯ. Ngoài ra trong hệ thống kinh Bát Nhã cũng đề cao một chủ đề nữa là Huyễn. Tựu trung ba chủ đề CHÂN NHƯ, KHÔNG và HUYỄN xem như là 3 gốc độ của Trí Tuệ Bát Nhã nhìn về hiện tượng thế gian trong đó có con người.

Trong hệ thống Kinh Bát Nhã, tác phẩm cuối cùng được dịch ra là "Bát Nhã Tâm Kinh" hay là "Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh". Đó là dịch theo âm Hán Việt. Bài này gồm hơn 260 chữ, là bài kinh ngắn nhất trong hệ thống kinh Bát Nhã Ba La Mật.

nguon-goc-va-y-nghia-cua-bat-nha-tam-kinh-2

Ý nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh

Trong Phật giáo Đại Thừa, lòng từ bi thường được thảo luận dưới góc độ của tuyệt đối và tương đối. Từ bi tuyệt đối là từ bi trong ánh sáng của Tánh không: Tất cả chúng sinh đều trống rỗng.

Tất cả chúng sinh, do đức tính trống rỗng của họ, đã được giải phóng và thuần khiết. Trong Bát Nhã Tâm Kinh đã nói, khổ đau trống rỗng và sự giải thoát khỏi đau khổ cũng trống rỗng.

Lòng từ bi tuyệt đối làm cho chúng ta có thể duy trì việc hỗ trợ và giúp đỡ chúng sinh đến vô tận mà không suy nghĩ gì. Lòng từ bi tương đối dựa trên quan điểm rộng lớn của chúng ta về bản chất trống rỗng của cuộc sống, trong mối liên hệ giữa trái tim và sự tham gia. Bản thân xem việc đó cũng là điều không thể, nhưng cả hai cùng nhau tạo ra một cuộc sống kết nối tuyệt vời và bền vững.

Bát Nhã Tâm Kinh truyền đạt bản chất của trái tim, của cái được gọi là sự hoàn hảo của trí tuệ hay cái nhìn sâu sắc. Nó giống như một bản ghi nhớ ngắn gọn để suy ngẫm tất cả các yếu tố trong cuộc sống tâm linh của chúng ta, từ quan điểm của những gì chúng ta đang có bây giờ, điều chúng ta trở nên khi chúng ta tiến lên con đường giác ngộ và những gì chúng ta đạt được (hoặc không đạt được) khi kết thúc con đường đó.

Nếu chúng ta muốn hiểu tất cả các chi tiết, chúng ta phải đọc bộ Đại Bát Nhã chiếm khoảng 21.000 trang trong kinh điển Phật giáo Đại Thừa, một trăm nghìn dòng trong mười hai quyển sách lớn. Nhưng ý nghĩa cao thâm vi diệu của Bát Nhã Tâm Kinh đều được cô đọng lại trong bản kinh ngắn với hơn 260 chữ.

nguon-goc-va-y-nghia-cua-bat-nha-tam-kinh-3

Nội dung của Bát Nhã Tâm Kinh

Bài Bát Nhã Tâm Kinh được nhiều vị tôn đức dịch ra tiếng Việt. Nhưng bài viết này dựa trên bản Hán Việt ở trên. Trước hết chúng ta tìm hiểu sơ lược về một số từ ngữ hầu giúp chúng ta hiểu ý từng đoạn kinh quan trọng.   

- Maha: Đại, lớn, ý nói đến trí huệ rộng lớn sâu sắc.

- Bát Nhã: Tiếng Pàli là Pañña, tiếng Sanskrit là Prajnà, nghĩa là trí huệ đầy đủ.  Người Trung Hoa âm ra là Bát Nhã, nghĩa là trí huệ sâu sắc hơn trí thông thường. Trí huệ này chỉ có nơi người tu tập kinh nghiệm định sâu, và qua sự kích thích của phản xạ thụ động huệ tự phát, chứ không qua sự học hỏi thế gian cóp nhặt của người khác. Đây là trí huệ tâm linh, trí huệ siêu vượt, là tuệ giác, là Phật tánh hay là tiềm năng giác ngộ có sẵn trong mỗi người chúng ta.

- Ba La Mật: Âm từ chữ Paramita, tức là "qua bờ bên kia". Người Trung Hoa dịch là "đáo bỉ ngạn" nghĩa là "đã tới bờ bên kia". Ba-La-Mật ra ngoài chân lý quy ước, nó thuộc chân lý tối hậu. Chúng ta hiểu một cách tổng quát đó là: Sự kiện toàn của Trí Tuệ, Trí Tuệ hoàn hảo, Trí Tuệ cao nhất... gọi là Bát Nhã Ba-La-Mật.

- Kinh: Lời dạy của Đức Phật thường gọi là Kinh. Kinh dạy chúng ta tu tập để thoát khổ, giác ngộ và giải thoát. Lời Tổ chú thích về Kinh thường gọi là Luận. Sau này, các vị Tổ viết ra những bộ Luận vẫn ghi là Kinh. Ví dụ như: Ngài Thần Hội, đệ tử trẻ nhất của ngài Lục Tổ Huệ Năng ghi lại những lời dạy của Lục Tổ đề là "Kinh Pháp Bảo Đàn". Cũng như những bộ Kinh của hệ Phát Triển như: Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Kim Cang v.v... cũng đề là Kinh, nhưng thực ra chỉ là những bộ Luận thôi!

- Tâm Kinh: Hiểu theo hữu vi pháp, thì tâm đây là trái tim, trái tim giới hạn sự sống chết của con người, trái tim động là sống, không động là chết. Trái tim trong đạo Phật thường được hiểu qua các từ ngữ như "mạng mạch" là sinh mạng của giáo pháp nhà Phật. Nói về chân đế, Bát Nhã Tâm Kinh là trái tim sống hoài của đạo Phật, có nghĩa là Trí Tuệ siêu việt. Nói về tục đế, Bát Nhã Tâm Kinh là trái tim của giáo pháp.

Nghĩa chung, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là Kinh quan trọng nói về Trí Tuệ Bát Nhã. 

TÁNH KHÔNG

"Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách"

- Quán-Tự-Tại Bồ-Tát: Danh hiệu Đức Quán Thế Âm (Avalokitésvara). Bồ-Tát là âm của chữ Bodhisattva, có khi người ta đọc dài hơn là Bồ-đề-tát-đoả. Quán Thế Âm theo niềm tin là vị Bồ-Tát đã tu tập Tánh Nghe, ngài đã nghe tiếng sóng biển tức Hải Triều Âm, vào được định và sáng đạo. Đức Quán Âm sống với hạnh từ bi, nguyện đời đời độ chúng sanh không thành Phật. Đây là nhân vật hư cấu, nghĩa là trong sử liệu, ngài không có thật như Đức Phật Thích Ca và các đệ tử của ngài. Truy nguồn gốc, ngài là nam thần trong đạo Bà-La-Môn. Khi lan truyền đến Trung Hoa, Việt Nam, ngài trở thành người nữ, là vị Bồ-Tát có nhiều hoá thân trong niềm tin dân gian thuộc về tín ngưỡng tôn giáo.

Trong Phật học, Bồ-Tát là danh xưng gọi những người tu tập, có mục tiêu muốn đạt tới quả vị Phật. Ở trong kinh Đức Phật cũng tự xưng mình là Bồ-Tát khi ngài đang tu tập khổ hạnh.

Về sau, danh xưng Bồ-Tát đòi hỏi 2 giai đoạn: Tự giác - Giác tha,  hay Tự độ - Độ tha, nghĩa là chính mình phải giác ngộ sau đó phát tâm giúp đỡ người khác, cho nên con đường tu tập và giáo hoá chúng sanh gọi là Bồ-Tát đạo.

- Hành thâm: Thực hành ở trong định, sâu sắc trong Trí tuệ kiện toàn.

- Bát-Nhã Ba-La-Mật: Là Huệ tới bờ bên kia, nghĩa là ngài đã đi qua hết chặng đường tu tập, bây giờ đã tới mức cuối cùng, nghĩa là đã qua tới bờ giải thoát, và kết quả là ngài đạt Trí Tuệ siêu vượt, nhận ra bản thể của Ngũ uẩn là trống không. 

- Chiếu kiến: Kiến là thấy. Chiếu kiến là cái thấy soi sáng, thông hiểu vấn đề. Cái thấy này không phải là thấy bằng mắt thường, mà thấy bằng trí huệ, nhận thức rõ ràng Ngũ uẩn đều là trống không, tức là thấy trong Nhận thức cô đọng, Bồ Tát nhận biết rõ ràng bản thể của năm nhóm này là trống không.

- Giai không: Giai là tất cả. Giai không là tất cả đều trống không.

- Độ: Con đò đưa mình qua sông, cứu vớt, giúp đỡ...

- Nhất thiết: là tất cả

- Ách: Là cái gông buộc ngang đầu con bò, những đau khổ đè nặng lên mình gọi là khổ ách.

- Ngũ uẩn giai không: Con người hay Ngũ uẩn gồm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Khi phân tích con người do Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức kết hợp mà thành, Đức Phật giảng rằng mỗi khối đó không thường hằng, không thực chất cố định nên nó trống không, gọi là Vô Ngã. Trong bài kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật đưa ra ba đặc điểm của con người và hiện tượng thế gian là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã gọi chung là Tam Pháp Ấn. Về sau các vị Tổ lập thêm Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, Không gọi là Tứ Pháp Ấn. "Không" trong Tứ Pháp Ấn dùng để khai triển về cái Ta, đó là: Không Ta, không cái của Ta, không tự ngã của Ta. Sau cùng các ngài rút gọn lại chỉ còn một pháp gọi là Nhất Pháp Ấn là Không. "Không" này bao trùm khắp pháp giới.

Ngũ uẩn không thực chất, không thường hằng cho nên bản thể của nó trống không.  Đó là ý nghĩa của "Ngũ uẩn giai không".

Khi kết luận "Ngũ uẩn giai không", không có nghĩa là phủ nhận không có Ngũ uẩn. Cái nhìn vạn vật trống không là cái nhìn của Trung đạo. Trung đạo tức là không rơi vào hai cực đoan: Có và Không.

Nhắc lại ý nghĩa Trung đạo của "Không", chúng ta cần hiểu nó không có nghĩa phủ định. Và chữ "Không" ở chỗ "Ngũ uẩn giai không" là chữ "Không" trong tiếng Hán Việt có nghĩa là "trống không" chứ không phải chữ "Không" trong ý nghĩa tiếng Việt là "không có".

Ban đầu Đức Phật chọn con đường Trung đạo để tu tập, là không rơi vào cực đoan của lợi dưỡng, hay rơi vào cực đoan của khổ hạnh thái quá. Cực đoan của lợi dưỡng là nếp sống hưởng thụ vật chất xa hoa trong thời kỳ còn là Thái Tử sống trong hoàng cung. Còn cực đoan của khổ hạnh là trong thời gian Đức Phật tu khổ hạnh khốc liệt 6 năm ở trong rừng. Cả hai cực đoan này không đưa tới giác ngộ giải thoát, cho nên Đức Phật chủ trương Trung đạo, là ăn uống vừa đủ để có sức khoẻ mà tu tập. Đó là ý nghĩa Trung đạo trong bước đầu.

Về sau Trung đạo có ý nghĩa là không rơi vào hai cực đoan: Có và Không. "Có" tức là có mặt, có hiện hữu, thuật ngữ gọi là "Thường kiến". Còn "Không" là phủ nhận hoàn toàn không có hiện hữu, thuật ngữ gọi là "Đoạn kiến".

Chủ trương "Thường kiến" thì cho rằng mọi vật hay con người, hay thế gian này là thường hằng bất diệt, tức là trong con người có cái Ngã trường cửu, còn gọi là linh hồn trường cửu. Còn chủ trương "Đoạn kiến" thì cho rằng thế gian này chấm dứt là hết,  con người chết là hết, là xong, không có luân hồi sinh tử, không có tương quan nhân quả, không có nghiệp báo.

Đó là hai cái nhìn Đức Phật cho là sai lầm. Đức Phật chủ trương KHÔNG hay TÁNH KHÔNG, TÁNH HUYỄN là nó nằm trong cái nhìn Trung đạo. Ngài không phủ nhận hoàn toàn về sự hiện hữu của con người hay là không có hiện tượng thế gian ở trên cõi đời này. Ngài không nói con người thường hằng hay là thế gian này thường hằng, mà Ngài nói rằng hiện tượng thế gian cũng như con người có mặt, nhưng sự có mặt đó thay đổi luôn luôn, do đó bản thể của hiện tượng thế gian và con người là trống không. Cho nên quan điểm về Tánh Không nằm trong Trung đạo không rơi vào hai cực đoan của triết thuyết thời bấy giờ.

Huyễn cũng thế. Huyễn ở đây là ám chỉ con người hay hiện tượng thế gian có, vì với mắt thường chúng ta đều thấy, nhưng những cái có đó là tạm bợ, giả dối, giống như là ảo thuật, có đó rồi mất đó, nó như mộng, như ảo, như giọt sương ban mai, như điện chớp rồi tắt, cho nên nói Huyễn Có chứ không Thực Có. Do đó Huyễn cũng là Trung đạo. Trong kinh Kim Cang có bài kệ nổi tiếng. Đó là:

                        Nhất thiết hữu vi pháp

                        Như mộng, huyễn, bào, ảnh

                        Như lộ, diệc như điện

                        Ưng tác như thị quán.

                        (Tất cả pháp hữu vi

                        Như mộng, huyễn, bọt, sóng

                        Như sương và như chớp

                        Nên quán sát như thế)

- ... độ nhất thiết khổ ách: Trở lại bản thể của con người là trống không vì do nhiều duyên, nhiều nhân mà thành, khi nhân duyên tan rã thì con người đó không còn, do quy luật biến dịch, luôn luôn lưu động, luôn luôn chuyển hoá, khi gặp duyên khác phù hợp, kết lại thành một hình thể khác. Nhưng tại sao khi nhận ra con người là Vô ngã, là Vô thường, là trống không, thì không còn đau khổ nữa? "Ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách". Đó là vì chúng ta nghĩ có cái ngã thật nên mới khổ. Trong bài kinh Tứ Thánh Đế, Đức Phật nâng Khổ đế lên hàng thứ nhất. Theo Đức Phật thì Khổ chia ra làm năm nhóm:

- Nhóm thứ nhất: Bốn khổ lớn là Sanh, Già, Bệnh, Chết.

- Nhóm thứ hai: Xa cách người thân yêu là khổ.

- Nhóm thứ ba: Sống gần gũi hay sống chung với những người, vật, cảnh mình không ưa thích là khổ.

- Nhóm thứ tư: Không toại nguyện những điều mình mong cầu là khổ.

- Nhóm thứ năm: Chấp trước vào thân suy thịnh của mình là khổ. Trong kinh gọi là chấp trước Ngũ uẩn hay Thủ Ngũ uẩn. Đây mới chính là nguồn gốc của khổ đau. Vì chấp cái thân có thật nên mình luyến ái nó, lo lắng, phục vụ nó, lúc nào cũng mong muốn nó tươi trẻ hoài không già, không bệnh, không chết. Nhưng ở đời có ai trẻ hoài, không bệnh và không chết, vì thế mà con người luôn chìm đắm trong biển khổ triền miên của cuộc đời.  

Chấp ngã là thật, là thường hằng, cũng bị xem là lậu hoặc. Trong tầng định thứ tư, vào canh ba Đức Phật chứng Lậu Tận Minh biết rõ nguồn gốc khổ đau, luân hồi sanh tử chính là lậu hoặc.  Đức Phật xếp lậu hoặc gồm 4 nhóm: Vô minh lậu, dục lậu, hữu lậu, kiến lậu.  Bốn cái lậu này có liên quan đến ngã. Vì chấp ngã nên dục lậu gồm "tài, danh, sắc, thực, thuỳ" đua nhau phục vụ cho cái ngã.  Khi sống mà muốn sống mãi thì đó là hữu lậu. Như vậy bên dưới cái ngã luôn có 4 thứ lậu hoặc kể trên. Xưa kia, năm anh em Kiều Trần Như khi được nghe Đức Phật giảng bài kinh Vô Ngã Tướng, sạch hết lậu hoặc vì không còn chấp ngã nữa, nên đắc quả A-La-Hán.

Tóm lại, nguyên do đau khổ là do chúng ta thấy thân tâm chúng ta có thật. Muốn nắm chặt những gì đang có và muốn sẽ có thêm những cái khác. Khi biết nguyên nhân khổ của con người là chấp ngã, khát ái, ích kỷ... nên Đức Phật cho toa thuốc để trị. Toa thuốc để trị bệnh khổ là Bát Chánh Đạo gồm 8 vị thuốc. Đầu tiên của Bát Chánh Đạo là Chánh Kiến sau cùng là Chánh Định. Khi thực hành và thể nhập cả 8 phương thức này thì sẽ hết khổ. Toa thuốc của Đức Phật đưa ra cái nhìn đúng là Chánh Kiến giúp bệnh nhân nhận ra bản thể của hiện tượng thế gian và con người thật sự là trống không. Cái Ta là trống không, cái Ta là Huyễn có, cái Ta là giả danh. Có mà thay đổi không trường tồn, không có thật, bởi cái Ta chỉ là sự kết hợp của Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; mà Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức thay đổi từng phút từng giây không có gì cố định để gọi là cái Ta thường hằng. Nhận ra điều này và chấp nhận điều này thì đó là Chánh kiến hay Chánh trí. Hiểu rõ điều đó rồi thì còn cái gì để khổ nữa!

Như vậy, mọi vật hay mọi sự kiện trên đời, nói chung đều trống không, cho nên những lời nói nặng nhẹ hay từ ái, những cử chỉ nhẹ nhàng, lịch sự hay thô bạo, bản thể của nó cũng trống không. Ý nghĩa của chủ đề KHÔNG là ở chỗ đó! Nhận ra rồi, thì không còn dính mắc vào những thăng trầm của cuộc đời. Cho nên trong đoạn thứ nhất của Bát-Nhã Tâm-Kinh nêu lên một phương thức tu tập hay một cái nhìn Chánh Kiến. Đó là phải nhận ra TÁNH KHÔNG của Ngũ uẩn, cũng như tất cả hiện tượng thế gian đều trống không thì không còn cái gì đau khổ nữa!

- Xá Lợi Tử: Âm từ chữ Sārīputta. Sàrì là Xá Lợi. Putta là Phất, cũng có nghĩa là con, nên  chúng ta thấy trong kinh có lúc gọi ngài là Xá Lợi Tử, có khi gọi ngài là Xá Lợi Phất. Ngài là đệ tử lớn trong số 10 vị đệ tử khác của Đức Phật, được Đức Phật tán thán là đệ nhất trí huệ.

- Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc: Hiểu theo Khoa học, Sắc là vật chất, chúng ta tưởng là nó cứng cỏi, vững bền, nhưng thực ra nó có là do nhiều nguyên tử kết hợp. Qua kính hiển vi với độ phóng đại 5 ngàn lần nhỏ hơn 1 ly (microns), chúng ta sẽ thấy từng yếu tố cực nhỏ nữa. Những yếu tố đó được các nhà Khoa Học Vật lý gọi là: Protons, Neutrons, Electrons, Mesons, Hadrons và nhỏ nhất là Quarks. Quark chỉ là tên gọi để chỉ đơn vị nhỏ nhất của vật chất, chẳng có một hình dáng hình thể gì cả. Nó chỉ là một sự trống không. Tuy nhiên trong sự trống không của nó có những sức đẩy từ bên trong nó phóng ra. Sức đẩy này làm vận chuyển các hạt hay đơn vị khác như Protons, Neutrons, Electrons, Mesons và Hadrons. (*) Như vậy Sắc không khác gì Không và ngược lại.

Còn hiểu theo giáo lý nhà Phật "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc" chữ Không của vế đầu là tỉnh từ trống không, trống rỗng (śūnya). Chữ Không của vế thứ nhì là danh từ Sự Trống Không, Sự Trống Rỗng (śūnyatà) có nghĩa là "Vật chất không khác với Không, Không cũng không khác với Vật chất", vì bản thể của vật chất là trống không.

- Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc: Bằng trí tuệ chúng ta nhìn thấy: "Vật chất, bản thể của nó trống không và sự trống không này chính là vật chất". Từ sự nhìn thấy này chúng ta có thể hiểu: "Thân con người bản thể trống không cho nên con người là không. Và sự trống không này chính là con người". Để cho rõ nghĩa ở vế thứ hai chúng ta có thể hiểu con người sanh ra do tinh Cha huyết Mẹ kết hợp mà thành. Tinh Cha, Huyết Mẹ, bản thể cũng là trống không, nên trống không đích thị là con người. 

Tóm lại, từ thế giới vật chất, chúng ta phải nhận ra bản thể của nó trống không "Sắc tức thị Không", nhưng chính từ trạng thái trống không đó, nó mới kết hợp lại để trở thành thế giới vật chất "Không tức thị Sắc". Ở mặt này, chúng ta biết KHÔNG, tự nó có một năng lượng. Đó là năng lượng biến dịch còn gọi là quy luật biến dịch. Quy luật này giải thích sự biến dịch chuyển hoá trong vũ trụ, đồng thời giải thích con người từ đâu mà có, đó là từ nhân từ duyên mà có, vũ trụ cũng thế! Nó có mặt rồi biến đổi theo nhân duyên để trở thành cái khác theo nhân duyên khác. Như vậy dòng sống của con người hay vũ trụ không có nhân đầu và nhân cuối cùng. Dòng sống đó vô thuỷ vô chung, không có bàn tay Thượng đế hay thần linh can thiệp vào.

- Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị: Khi nói bản thể của Sắc trống không, thì bản thể của bốn khối: Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng trống không. Do đó, kết luận bản thể của Ngũ uẩn tức 5 khối đều trống không. Nhưng không phải Ngũ uẩn hoàn toàn không có, nó có nhưng mà vì nó di động, biến dịch luôn nên gọi là Huyễn Có. 

Hai câu đầu trong bài kinh nói về TÁNH KHÔNG. Khi chúng ta nhận ra bản thể trống không của con người và vũ trụ, chúng ta sẽ không còn dính mắc, không còn nắm chặt quan niệm cũ cho cái thân này mãi mãi trường tồn nữa... thì đó là Trí Tuệ Ba-La-Mật. Trong kinh dùng chữ "chiếu kiến" không có nghĩa là suy gẫm, suy tư hay là quán chiếu, mà là cái thấy rõ ràng sáng tỏ, do Trí Huệ đã nhận ra bằng Nhận Thức Không Lời cái Tánh Không của con người và vũ trụ. Ngay đây, hành giả đã  thể nhập vào KHÔNG rồi, nên nhận ra Ngũ uẩn là Không thì tất cả những điều đau khổ, những chướng ngại ở trên đời thực ra bản thể của chúng cũng là Không.  

nguon-goc-va-y-nghia-cua-bat-nha-tam-kinh-4

TÁNH NHƯ / CHÂN NHƯ

- Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm: Phần ở trên bàn về bản thể, về cái tánh của hiện tượng thế gian. Bây giờ nói đến cái tướng. Tướng là những cái gì biểu lộ ra bên ngoài gọi là tướng. Chữ tướng hiểu theo tục đế là dấu hiệu bề ngoài, giác quan có thể nhận ra.  

Câu "thị chư pháp không tướng" này, đã chuyển qua khía cạnh khác của con người và vũ trụ, đó là nói đến "cái tướng bề ngoài của vạn pháp là trống không, không có gì bên trong nó, tức là nói đến Tánh Như của vạn pháp". Muốn nhận ra Tánh Như hay còn gọi là Chân Như, phải nhận ra bằng Nhận Thức Không Lời. Chỗ này gọi là trạng thái Atakkàvacara, mà hệ Phát Triển diễn tả là "trạng thái bất khả tư, bất khả thuyết, bất khả tư nghì" nghĩa là không thể suy nghĩ, không thể nói bằng lời, không thể nghĩ bàn. Nhưng không nói ra thì không ai hiểu được, cho nên tạm dùng ngôn ngữ tương đối để diễn tả chỗ Atakkàvacara là chỗ hoàn toàn yên lặng không lời. Đây cũng là nguyên do sau khi Đức Phật thành đạo ngài không muốn đi giảng pháp là vì chỗ ngài chứng ngộ khó thấy, khó chứng, siêu lý luận... không thể dùng lời để giảng giải. Trong kinh Thánh Cầu, Đức Phật mô tả chỗ này như sau:

"Này các Tỷ-Kheo, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận (atakkàvacara), vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccayatà Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành (sabbe-sakhàra-samtho), sự từ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết Bàn (Nibbana).

Rồi này các Tỷ-Kheo, với những suy tư như vậy, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp"

Như vậy chúng ta biết chỗ đó là chỗ Atakkàvacara, là Tâm Tathà hay Tâm Như, là Bát-Nhã Ba-La-Mật, là chỗ vắng lặng, tịch tịnh nhưng vô cùng sáng suốt, phải tự mình dụng công tới chỗ Nhận Thức Biết Không Lời mới nhận ra mà thôi. Khi Đức Phật quyết định đi giáo hoá, lúc đầu ngài tạm dùng lời để hướng dẫn tới chỗ không lời. Sau này các Tổ tạm phân biệt là Tục Đế Bát Nhã còn dùng lời để  giảng dạy các chân lý của Đức Phật dần dần đưa tới các chủ đề siêu vượt Tánh Không và Chân Như là chỗ không lời gọi là Chân đế Bát Nhã.

Định nghĩa đầu tiên của Chân Như là "cái bề ngoài khách quan của hiện tượng thế gian". Bề ngoài là tướng. Khách quan là không có những chủ quan trên nó. Chủ quan là những cái mà người đời gán ghép lên cho nó, như tên tuổi, màu sắc, đẹp xấu v.v... gọi là tướng thế gian.  

Lấy hết những cái tướng chủ quan đó ra, còn lại "cái tướng khách quan" là cái của chính nó, là tướng thật của nó. Nhưng mà tướng thật của nó là trống không, là không có tướng gì hết, nên mới có thành ngữ "Thực Tướng Vô Tướng" để chỉ Chân Như, nghĩa là cái tướng thực sự của Chân Như là không có tướng gì hết. Đó là cái "khách quan tánh tuyệt đối" của hiện tượng thế gian gọi là Chân Như, tạm gọi là Như Vậy!

Bởi vì, khi nào "có tướng" thì mới có như thế này, như thế khác, thay đổi luôn luôn, gọi là có tướng sanh, có tướng diệt.  Còn "không tướng" trong câu "thị chư pháp không tướng" nghĩa là thật tướng của nó là KHÔNG. Không này là "trống không". Mà nói "cái tướng trống không" thì lại có nghĩa là "không có tướng", tức là "cái tướng của nó trống không". Cho nên ở đoạn này nói đến cái "không tướng" là nói Tánh Như, chứ không phải nói Tánh Không như ở đoạn kinh trên nữa! 

Trong trạng thái Chân Như không có cái gì trong đó hết, nó khách quan, không tên tuổi, không dấu vết và nó yên lặng bất động, cho nên nó không có tướng sanh, tướng diệt. Nó cũng không có tướng dơ, tướng sạch. Nó cũng không có tăng lên, cũng không có giảm xuống.

- Thị cố không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp;..... Chúng ta nhìn thấy, biết rằng ở "trong cái chỗ trống không" đó, hay là "trong giữa cái trống không" (không: trống không; trung: ở trong hay ở giữa) tức là trạng thái Chân Như không có chứa đựng cái gì hết. Nó chỉ Như vậy thôi!  Chân Như là trạng thái khách quan của hiện tượng thế gian, chứ nó không phải là hiện tượng thế gian, cho nên ở đây mới nói phủ định là không có Sắc, không có Thọ, không có Tưởng, không có Hành, không có Thức, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tức là giác quan không có trong đó, cho nên không có nhãn giới, không có ý thức giới, không có vô minh cũng không có chấm dứt vô minh, không có lão tử cũng không có chấm dứt lão tử, không có cả Tứ Diệu Đế, Bát Chánh đạo, không có Trí cũng không có đắc... nghĩa là trong Chân Như  không có cái gì hết, nó chỉ Như vậy là Như vậy thôi!

Còn như chúng ta nói con người có thân, có già, có bệnh, có chết... là dùng lời ở trong quy ước tục đế. Nhưng khi ở trong trạng thái Tâm Như, không còn dùng lời, không định danh, không gọi tên đối tượng, thì không nói thân này già, thân này bệnh, thân kia chết. Già, bệnh hay chết cũng có cái Chân Như của nó. Tâm bất động nên thấy mọi thứ đều bất động. Cái gì cũng bất động thì không ảnh hưởng tới mình, nên mình thoát khổ, mình sống thong dong trong cuộc đời, đạt được trạng thái Niết Bàn, là trạng thái tâm vắng lặng tịch diệt, là trạng thái Tâm Như.

Như vậy trong Tâm Như không có cả Tứ Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Tứ Thánh Đế là do Đức Phật bày ra làm phương tiện để hướng dẫn con người, đó là Tục đế Bát Nhã. Đức Phật tạm đứng trong thế gian giảng Tứ Thánh Đế, vì con người có cảm thọ, có khổ, phải tu tập để đi đến Chánh Định là Chân đế Bát Nhã.

- Vô Vô Minh diệc vô Vô Minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận: Là nói tới 12 nhân duyên. Vô Minh sanh Hành, Hành khởi Thức, Thức khởi Danh Sắc, Danh Sắc khởi Lục Nhập, Lục Nhập khởi Xúc, Xúc sanh Thọ, Thọ sanh Ái, Ái sanh Thủ, Thủ sanh Hữu, Hữu khởi Sanh, Sanh khởi Lão Tử. Vô minh là nhân thứ nhất, nhân cuối cùng là Lão tử. Nhưng đây là một vòng tròn khép kín nên cũng không nói mắt xích nào là đầu, mắt xích nào là cuối. Đó là cái nhìn của con người mới học đạo, thấy tất cả đều thật, là tại vì con người có cảm thọ qua giác quan nên thấy 12 mắt xích là thật. Đây là chỗ đứng của Tục đế Bát Nhã.

Bây giờ qua cái nhìn của Chân đế Bát Nhã, trạng thái Chân Như không có khái niệm gì hết, không chứa gì trong đó hết, nó hoàn toàn bất động cho nên không có 12 nhân duyên trong đó, không có Vô minh, không có không Vô minh, không có già, cũng không có không già, không có chết.... Vì thế 12 nhân duyên cũng là pháp phương tiện, Đức Phật bày ra để dẫn dắt chúng sanh tu, chứ bản thể của mỗi mắt xích liên kết với nhau đều là trống không, đều là Huyễn Có và mỗi mắt xích có cái Chân Như của nó. Và cuối cùng trong Chân Như cũng không có trí, mà cũng không có đắc.

- Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo: Cũng không có Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế có là đặt trên quan điểm thế gian, đứng trên cái nhìn giống như cái nhìn của người thế gian.     

- Chân lý đầu tiên nói cuộc đời là biển khổ, đó là cái nhìn theo Tục đế Bát Nhã, là tại vì con người có cảm thọ thật, nên thấy mình khổ thật, cho nên Đức Phật đồng ý với mọi người rằng là: " có khổ" và ngài kể ra 8 loại khổ. Đây là cái nhìn Tục đế Bát Nhã có sức thuyết phục của Đức Phật đối với con người bình thường sống ở thế gian này, ngài không giảng dạy những gì xa xôi, mà nói thẳng đến cuộc sống thiết thực của con người là Khổ. Trên đời này bất cứ là ai, dù nghèo, dù giàu, dù đẹp, dù xấu... dù là vua chúa, tổng thống hay thường dân... đều có nỗi khổ riêng của họ, cho nên mọi người dễ dàng chấp nhận Chân lý Khổ do Đức Phật đưa ra.   

- Tới chân lý thứ hai là Tập đế, tìm hiểu nguyên nhân sâu xa vì đâu mà có tới 8 loại khổ (hay 13 loại khổ)? Đó là vì khát ái từ cái Ngã ý thức mà sinh ra, như vậy là nói có thật khát ái, có thật lậu hoặc. Đây cũng còn là cái nhìn của Tục đế Bát Nhã.

- Qua tới chân lý thứ ba, thứ tư của Tứ Thánh Đế mới nằm trong Chân Đế Bát Nhã. Bản thể của Khổ là trống không, cho nên cần tu tập Bát Chánh đạo để thoát khổ.

Hai đế trên Khổ là có thật. Có thật tức thường hằng bất biến, có nghĩa là cứng chắc kiên cố. Qua đế thứ ba thì nỗi Khổ nào cũng do nhân do duyên hợp hết. Khi nhận ra duyên hợp tức bản thể trống không thì thuộc về mặt Chân đế, Đức Phật đưa ra bài thuốc gồm 8 vị, đó là Bát chánh đạo tu tập để hết Khổ.

Trở lại bài Bát Nhã Tâm Kinh, hoàn toàn nói về Chân đế Bát Nhã, không có nói Tục đế, thì ngay cả Khổ, Tập, Diệt, Đạo cũng không có, bởi vì bản thể của nó trống không. Những nỗi Khổ là do duyên sanh, do quy luật nhân quả, nó có trong cái nhìn Tục đế, nhưng trong cái nhìn giác ngộ thì nó không thật có, mà là Huyễn Có vì nó là trống không. Cho nên cả 4 chân lý Khổ, Tập, Diệt, Đạo cũng không thật sự có trong cái nhìn Chân Đế, nó là phương tiện để dắt dẫn con người đi tới thoát khổ thôi! Vì thế ở trong trạng thái Chân Như không có những pháp phương tiện này.

- Vô trí diệc vô đắc: Trí là trí tuệ, cũng không có đạt được cái gì. Nếu nói đạt được cái gì là còn nằm trong Tục đế. Bởi vì khi nói có cái Trí đạt, tức là chưa đạt, là vì còn Ta và đối tượng, còn năng sở, còn cái Ngã, thì làm gì có đạt.

Trong kinh có ghi lời Đức Phật: "Nếu ai nói Như Lai đạt quả Vô Thượng Bồ Đề là phỉ báng Như Lai", ở chỗ này nếu có quả vị thật để mình chứng đạt thì có nghĩa là mình chưa chứng đạt, mà nếu nói không chứng đạt thì cũng không đúng. Tại sao? Vì nói ra lời là rơi vào quy ước rồi! Cho nên Đức Phật  chủ trương Trung đạo, mà Trung đạo bây giờ chỉ Thầm Nhận Biết, hay là Nhận Thức Biết Không Lời thôi, mở miệng nói ra lời, là rơi vào quy ước, rơi vào Tục đế, rơi vào nhị nguyên liền.   

Trong kinh dùng chữ "bất" và chữ "vô", nó có nghĩa là phủ định. Tại sao lại phủ định? Nếu không nói thì không ai hiểu, mà hễ dùng lời là quy ước, cho nên phải dùng phủ định để dẫn dắt tới chỗ không có gì trong Chân Như.

Thí dụ: Tâm Như là chỗ không lời, Atakkàvacara, nhưng nếu không nói ra làm sao người ta biết chỗ này phát huy Trí huệ, thành ra phải nói. Bài kinh này các vị Tổ dùng lời để giảng chỗ không lời. Chỗ nào không có gì hết thì dùng chữ "bất", dùng chữ "vô" nghĩa là phủ định. Như không tăng không giảm, không cấu, không tịnh, không già, không chết v.v... tức là không có gì hết. Đó là phải tạm dùng lời, vì lời cho nên phải phủ định. Trừ hay loại những phủ định đó ra, thì cái còn lại cái tinh tuý của nó. Cái tinh tuý này tạm gọi là Chân Như, là nó đó, là Atakkàvacara. Chỉ là phương tiện thôi, cho nên những "lời này" cũng giống như "ngón tay" chỉ "mặt trăng" hay "mặt trời". Phương tiện là lời nói, chữ viết, kinh điển... là quy ước, không phải là "nó". Nó ở đây là kho báu của mình, là mặt trời trí huệ của mình, là viên ngọc Như Ý trong búi tóc hay trong chéo áo của mình. Nó phát triển tới vô lượng vô biên. Đức Phật gọi là Tathatà, là cái Như vậy. Chúng ta cũng tạm gọi nó là cái Như vậy, cái Như thế!

Nói vô Trí là không có trí tuệ cũng không đúng, mà nói có cũng không đúng. Có trí tuệ thì mới gọi là kho báu, là viên ngọc như ý, tức là lúc đó hoàn toàn an vui không còn khổ nữa và mình có những phương tiện thiện xảo để giúp đời, nhưng mà khi nói có trí tuệ là đã dính mắc, đã rơi vào cái nhìn của thế gian. Mà nói không thì cũng không đúng.

Kinh nói "vô đắc vô trí" là không có đạt gì. Mà thực sự có đạt gì không? Hễ dùng phương tiện thì nói là có đạt, nhưng khi mình hoàn toàn không khởi niệm gì hết thì mình không vướng vô 2 cực đoan Có và Không, là ở trong Trung đạo.

- Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đoả y Bát Nhã Ba-La-Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn: Tâm có ngăn ngại là tâm còn có ranh giới vì còn cái Ngã, còn giới hạn, hay là khi còn có Ý thức thì còn phân biệt còn ngăn ngại. Còn bây giờ tâm Bồ-Tát hoàn toàn ở chỗ Như Như bất động, nên không còn ngăn ngại, chướng ngại gì cả. Nếu là người vẫn còn sống trong cuộc đời, còn lăn lộn giữa bao nhiêu cảnh trái ngang, phiền toái của đời thường, thì những thứ phiền não kể trên chẳng ảnh hưởng gì, chẳng ngăn ngại gì trên bước đường tu tập của họ hay cản trở con đường hoằng pháp của họ. 

Tâm không còn chướng ngại nên không còn sợ hãi. Đối với người đời khó có ai nói là mình  không sợ gì hết. Thực sự, chúng ta sợ đủ thứ, trong đó sợ chết là cái sợ kinh khủng nhất. Bây giờ tu tập rồi mình cũng bớt lo, bớt sợ, bằng cách phải tỉnh thức, phải có Trí tuệ hiểu tất cả bản thể đều trống không. Khi mình không tác ý, thì mình không nói đó là chết, đó là sanh, đó là già. Khi mình tác ý ra, mình gán cho cái tên, từ cái tên đó kéo theo những hình ảnh già, bệnh, chết... khiến cho mình lo âu sợ hãi.

Bằng Trí tuệ, cái gì mình cũng thấy đó là quy luật khách quan, muốn hay không đều phải chịu, và khi mình hiểu bằng Trí tuệ thì mình không khổ, không sợ, thì đó là mình đã thoát ra khỏi quy luật sinh tử rồi. Khi không còn sợ hãi nữa thì "xa rời mộng tưởng", mình sợ là tại vì mình mộng tưởng, tưởng tượng thôi. Có nhiều khi nỗi sợ của mình không có thật, mà mình cứ tưởng ra, hay vẽ ra, rồi mình sợ hãi. Nên khi tu tập có Trí huệ mình sẽ vượt qua cái sợ, trong kinh gọi là Vô uý. Khi không tác ý tưởng tượng vẽ vời hay tác ý về những hiện tượng thế gian, lúc đó không còn xử dụng tâm thế gian nữa, thì mình đang ở chỗ Tâm Như rồi gọi là Niết Bàn.

Cứu cánh là ở chỗ cuối cùng, mình chứng nghiệm được trạng thái tâm vắng lặng, tịch diệt gọi là Niết Bàn, cho nên trạng thái Niết Bàn chính là trạng thái Tâm Như, Như Như bất động. Khi còn sống gọi là Hữu Dư Y Niết Bàn. Khi ra đi không còn thân nữa thì gọi là Vô Dư Y Niết Bàn. Như vậy mình hiểu Niết Bàn không phải là nơi chốn nào xa xôi, nó là trạng thái Tâm Như của mình thôi.

- Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-Đề: A-nậu-đa-la Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề phiên âm từ Anuttara-Sammà-Sambodhi. Có ý nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Giác (sự giác ngộ không ai hơn). Bodhi là Giác ngộ, là Bồ đề, tức là quả vị Phật, mà Đức Phật tự xưng mình là Như Lai (Tathagatà). Do danh xưng Tathagatà, chúng ta biết rằng, muốn đạt được quả vị toàn giác phải đi qua Tâm Như, phải kinh nghiệm Tâm Như. Từ đó các vị Tổ thuộc hệ Phát Triển chủ trương mười phương thế giới chư Phật, đồng thời các vị Phật đều có danh hiệu Như Lai. Qua câu này mình biết phần quan trọng của bài kinh là nói đến Chân Như.

Tam thế chư Phật là Phật đời quá khứ, hiện tại và vị lai đều y theo Trí tuệ siêu vượt này đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

- Cố tri Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư: Như vậy phải biết Trí tuệ kiện toàn này giống như linh chú vĩ đại nhất, sáng suốt nhất, cao thượng nhất, không có cái nào cao hơn. Nó trừ tất cả mọi thứ Khổ trong đời, và nó là cái thực tại tối hậu không hư dối.

Như vậy bài Bát Nhã Tâm Kinh muốn nói đến 2 chủ đề lớn là Không và Chân Như. Chủ đề Không đưa đến thoát khổ. Chủ đề Chân Như đưa tới Trí huệ kiện toàn. Đó là căn cứ nơi sự kiện lịch sử của Đức Phật Thích Ca. Ngài đã chứng ngộ cái Chân Như. Từ đó Trí huệ phát sinh giải thích tất cả những bí ẩn thầm lặng của con người và vũ trụ.

Còn đoạn cuối cùng với câu thần chú, thật ra cũng không phải là thần chú, đó chỉ là một câu tiếng Phạn bày tỏ niềm vui tán thán của người đã đạt được sự giác ngộ, đã tới được bến bờ bên kia: Yết-đế, Yết-đế, Ba-La yết-đế, Ba-La-Tăng yết-đế, Bồ-Đề Tát-Bà-Ha (Gate Gate paragate parasamgate Bodhi svara) , chỉ vì câu này viết sau mấy chữ thần chú...  nên vô tình người ta tưởng nó huyền bí, chứ nó không có ý nghĩa huyền bí, nó chỉ có nghĩa là: "Đã tới rồi, đã tới rồi, tới bờ bên kia, tới bờ Giác ngộ rồi!"

CỐT LÕI CỦA BÁT NHÃ TÂM KINH

Chúng ta đã biết nhân vật Quán-Tự-Tại Bồ-Tát là nhân vật huyền thoại. Bài kinh này sáng tác sau thời Đức Phật. Sau khi nghiên cứu tìm hiểu chi tiết từng chữ, từng câu, từng đoạn của bài kinh, chúng ta nắm được cốt lõi bài kinh mà chư Tổ muốn gửi gắm cho hàng hậu học. Còn cấu trúc của bài kinh, các Tổ thuộc hệ Phát Triển mượn danh xưng ngài Xá-Lợi-Phất để trao truyền. Nếu tính thời gian theo trong Sử ghi lại thì ngài Xá-Lợi-Phất đã viên tịch trước Đức Phật, mà kinh này thì xuất hiện sau thời Đức Phật! Chúng ta chỉ Thầm Nhận Biết tới đây thôi.... Điều quan trọng của chúng ta là rút ra những điểm mấu chốt cần thiết của bài kinh này để học hỏi và tu tập!

Đọc kinh chúng ta thấy các vị Tổ đã trình bày ngay cái chỗ cuối cùng, ngay nơi đến của người tu tức là trong trạng thái Tâm Không và Tâm Như. Hai trạng thái cùng giống nhau ở chỗ Atakkàvacara, là chỗ không lời.

Khi trình bày về Tánh Không, chúng ta nhận thấy văn kinh rất là ngắn gọn, hàm xúc, minh bạch, không mơ hồ. Các Tổ đã đứng trong chỗ đứng của Đức Phật để trình bày cái nhìn Phật Giáo, nói về con người, đó là nói bản thể của con người trống không. Và từ cái nhìn này, sẽ có cách đưa con người thoát ra khỏi mọi khổ đau ở trên đời.

Mục tiêu giảng dạy bài này của chư Tổ nói lên được mục tiêu giảng dạy của Đức Phật khi ngài nói: "Tất cả nước trong đại dương có một vị mặn, đạo của Ta cũng có một vị thôi, đó là vị thoát khổ".  Trong cái nhìn này, Phật giáo không mơ hồ, viễn vông, mà giúp con người ngay khi còn sống chứ không hứa hẹn ở tương lai xa vời. Bài Bát Nhã Tâm Kinh này quả thật xứng đáng để chúng ta học hỏi vì đã nói đúng theo chân ý của Đức Phật là:

- Đưa con người thoát khỏi khổ đau triền miên, đó là cái nhìn của Tánh Không. Cái nhìn Không là cái nhìn Trung đạo của Phật giáo không rơi vào cực đoan Thường kiến và Đoạn kiến. Con người có thật nhưng bản thể trống không, nghĩa là Vô ngã phá tan xiềng xích của Chấp Ngã.

- Các vị Tổ khai triển Trí tuệ rốt ráo tới bờ bên kia là khai triển tới Chân Như. Chân Như cũng nằm trong Trung đạo, nó cũng tương tự như Không, như chỗ đứng của Huyễn. Đó là thế chân vạc, thế đứng vững chắc để phát huy Trí huệ kiện toàn là Bát Nhã Ba-La-Mật.

- Chủ đề Không được trình bày trước với dụng ý đưa kết quả giúp thoát khổ. Sau đó mới trình bày Chân Như. Đây là phương tiện giúp con người phát huy Trí huệ kiện toàn, bằng chứng là Đức Phật đã thành đạo qua Chân Như.

- Các chư Phật ba đời cũng qua Chân Như mà phát huy Trí huệ siêu vượt.

Xem thêm: Ý nghĩa của Kinh Lăng Nghiêm và cách tụng Kinh Lăng Nghiêm chuẩn nhất

songdep.com.vn

5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần

Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!

Bài Mới

Bình luận