Đất Nghệ An từng bụt mất cơ hội trở thành kinh đô của nước Đại Việt như thế nào?
Ít ai biết được, vùng đất Phượng Hoàng Trung Đô xưa (Nghệ An) suýt chút nữa trở thành kinh đô của nước ta vào thời Tây Sơn.
Theo dòng lịch sử có thể điểm qua một số vùng đất được xem là nơi địa linh nhân kiệt, tích tụ vương khí được chọn làm kinh đô của nước ta qua các thời kỳ:
- Thời An Dương Vương: Kinh đô ở Cổ Loa (nay là Đông Anh, Hà Nội).
- Thời Hai Bà Trưng: Kinh đô ở Mê Linh (nay thuộc Vĩnh Phúc).
- Thời Ngô Quyền: Kinh đô ở Cổ Loa.
- Thời Đinh: Kinh đô ở Hoa Lư (nay thuộc Trường Yên, Ninh Bình).
- Các thời nhà Lý, Trần, hậu Lê, Mạc: Kinh đô ở Thăng Long (nay là Hà Nội).
- Thời nhà Hồ: Kinh đô ở Tây Đô (Thanh Hóa).
- Các đời chúa Nguyễn thì nhiều lần rời đô, cuối cùng chọn Phú Xuân (Huế) đóng dinh.
- Nhà Tây Sơn chọn Quy Nhơn rồi sau đó chuyển ra Phú Xuân.
- Thời nhà Nguyễn đóng đô ở Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế).
Tuy nhiên, ít ai biết được rằng, Nghệ An cũng từng là vùng đất được nhắm trở thành kinh đô của nhà Tây Sơn, dưới sự trị vì của vua Quang Trung.
Ai là người được Quang Trung "chọn mặt gửi vàng" xem đất dựng đô?
Vào năm 1788, vua Quang Trung muốn xây dựng một kinh đô mới ở Phù Thạch (Nghệ An) thay cho kinh đô ở Phú Xuân. Kinh đô mới có tên là Phường Hoàng Trung Đô (xây dựng bên dòng sông Lam và núi Dũng Quyết, nay thuộc TP Vinh, Nghệ An). "Phượng Hoàng" là tên loài chim gắn với văn hóa truyền thống, còn "Trung Đô" là nơi nằm giữa hai thành chính quan trọng của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ: Thăng Long và Phú Xuân. Phượng Hoàng Trung Đô nằm cách Thăng Long 300km và cách Phú Xuân 300km.
Ông chọn La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đi làm việc này. Khi biết Nguyễn Huệ muốn xây dựng kinh đô mới ở Nghệ An trong thời gian ngắn, có lẽ do lo lắng việc này sẽ làm khổ dân địa phương, nên Nguyễn Thiếp chưa thực thi. Trấn thủ Nguyễn Thận trình thư tấu cho Nguyễn Huệ báo Nguyễn Thiếp chưa chịu xem đất nên công trình chưa thể khởi công được.
Nguyễn Huệ liền gửi chiếu thư cho Nguyễn Thiếp trách việc cứ chậm trễ. Nguyễn Thiếp liền gửi thư đến Phú Xuân khuyên Nguyễn Huệ không nên chọn vùng Phù Thạch. Bởi vì nơi ấy núi kề sông, đất chật hẹp, bờ sông lại hay sạt lở, việc đóng đô nơi ấy không thuận lợi.
Nguyễn Huệ trả lời trong tờ chiếu ngày 3/9 năm Thái Đức 11 (1788) đại ý rằng: Tiếp nhận lời khuyên của Nguyễn Thiếp. Nhưng vẫn muốn chọn đóng đô ở Nghệ An.
"Nếu bảo rằng những chỗ như Phượng Hoàng, Khánh Sơn không được đô hội thì sao chẳng tìm chỗ khác cho thỏa ý quả cung trông mong?... Nhớ buổi hồi loan kỳ trước lúc qua Hoành Sơn, quả cung đã từng xem địa đồ, thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy".
Nguyễn Huệ cũng giải thích thêm rằng: "Nay kinh đô ở Phú Xuân thì tình thế cách trở, ở xa trị Bắc Hà địa thế khó khăn. Theo đình thần nghị rằng, chỉ đóng đô ở Nghệ An là đường vừa cân, vừa khống chế được trong Nam ngoài Bắc và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện tiện việc đi lại.
Như vậy quyết định này được đưa ra chỉ vài tháng trước khi Nguyễn Huệ chính thức lên ngôi vua. Cũng trong tờ chiếu đó, Nguyễn Huệ còn ghi nhận ở Nghệ An “hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây dựng kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy!”.
Vì sao Quang Trung cương quyết chọn đất Nghệ An để xây dựng kinh đô?
Có truyền thuyết kể rằng, Nguyễn Huệ quyết xây kinh đô mới, Nguyễn Thiếp liền đi Nghệ An 1 chuyến. Vốn giỏi về dịch lý và phong thủy, ông xem kỹ 2 cuốn sách của Cao Bền do Hoàng Phúc mang sang nhằm triệt phá phong thủy vùng Giao Chỉ (sau đó, Hoàng Phúc bị nghĩa quân Lam Sơn bắt được và thu giữ hai cuốn sách này). Hai cuốn sách có nói đến vùng đất quý ở núi Dũng Quyết, nên Nguyễn Thiếp quyết đến nơi đây 1 chuyến.
Đến vùng núi Dũng Quyết, Nguyễn Thiếp thấy Tổ sơn xuất phát từ khe Bò Đái, nằm trong 99 ngọn núi Hồng Lĩnh, khí mạch chạy xuống núi Dũng Quyết, bao bọc xung quanh rồi vòng lại Tổ sơn. Núi Dũng Quyết thành nơi tụ khí, có đủ âm dương rất đắc địa.
Từ phía sông Lam quan sát sẽ thấy bên trái có Thanh Long, chính là dòng sông Lam; bên phải có Bạch Hổ là vùng núi Hà Tĩnh, cùng đưa khí tụ về núi Dũng Quyết. Còn mặt trước phía Đông núi DũnG Quyết là Chu Tước và phía sau là Huyền Vũ làm hậu phương. Nhận thấy nơi đây đắc địa nên Nguyễn Thiếp định chọn làm nơi để xây "Phượng Hoàng Trung Đô".
Nguyễn Thiếp còn nhận thấy, nơi đây là vùng đất "thiêng" hội tụ đầy đủ bốn con vật linh thiêng (tứ linh) mà cha ông đã ngàn đời tôn vinh thờ cúng là: Long - Ly - Quy - Phượng (còn gọi là Phụng) để xây thành gọi là thành Phượng Hoàng Trung Đô.
Nguyễn Thiếp sau đó báo cho Nguyễn Huệ về vùng đất mới tìm được tại Nghệ An. Nguyễn Huệ đồng ý nghe theo lời khuyên.
Hiện nay dưới chân núi Dũng Quyết vẫn còn dấu tích của Phượng Hoàng Trung Đô rộng khoảng 10 mẫu, với hai vòng thành là thành Nội và thành Ngoại hình thang.
Thành ngoại cao 3 đến 4m, chu vi 2.820 m, diện tích 22 ha. Phía ngoài có hào rộng 3m, sâu 3m; thành nội xây bằng gạch vồ và đá ong, cao 2m, chu vi gần 1.680m. Ở giữa có tòa lầu 3 tầng nối với điện Thái Hòa. Xung quanh thành có các đồn.
Để xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô Nguyễn Huệ đã cho lính vây bắt dân, buộc họ phải làm việc ngày đêm để hoàn thành công trình có tầm vóc lớn này. Theo các sử liệu nước ngoài, dân địa phương phản đối và mạnh ai người nấy trốn.
Quân Tây Sơn còn hà khắc hơn các chúa Trịnh và Nguyễn trong việc áp dụng chế độ lao dịch. Dưới quyền của họ, quân lính bắt cả các nhà sư, phụ nữ và trẻ em đi phu. Chỉ có những bà mẹ đang chăm cho con bú là được miễn.
Vì sao sau cùng Phượng Hoàng Trung Đô không được chọn?
Các nguồn sử liệu ghi chép, Phượng Hoàng Trung Đô được xây dựng trong thời gian 4 năm (1788 - 1792), trùng với thời điểm Nghệ An mất mùa, dân tình đói kém. Song Nguyễn Huệ vẫn ban chiếu yêu cầu xây dựng.
Các sử liệu nước ngoài cho rằng, người dân đói kém nên đã phản đối, mạnh ai nấy trốn khiến việc xây dựng gặp khó khăn, việc cưỡng ép xây dựng trong thời điểm mất mùa khiến nhân dân oán thán.
Sau khi đăng cơ vua Quang Trung cũng từng đi thị sát việc xây dựng kinh đô mới vào các năm 1789, 1791 và 1792. Song việc xây dựng kinh đô đang gấp rút được tiến hành thì vua đột ngột qua đời.
Về nguyên nhân Quang Trung bị bệnh qua đời thì cũng không có ghi chép nhiều. Có thuyết cho rằng, vì vua khi giành được Phú Xuân đã phá lăng tẩm 8 đời của chúa Nguyễn, ném thi thể xuống sông, mạo phạm những vị chúa đã có công mở mang bờ cõi, nên sau này sinh bệnh (đây cũng được cho là nguyên nhân khiến vua Gia Long sau này đối xử tàn tệ với hài cốt vua Quang Trung).
Sách “Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện” ghi rằng: "Huệ trong lúc lấy kinh đô Phú Xuân có mạo phạm đến lăng tẩm của Liệt Thánh. Một ngày kia đương ngồi, thình lình bắt đầu xây xẩm rồi ngã ra hôn mê. Mơ màng thấy một lão trượng đầu bạc, áo trắng, cầm gậy sắt từ không trung đi đến, mắng rằng: Ông cha mày đều sinh ở đất vua, mày sao dám mạo phạm đến lăng tẩm. Nói vừa dứt lời liền lấy gậy sắt đánh nơi trán Huệ. Huệ ngã xuống bất tỉnh hồi lâu mới tỉnh lại. Từ ấy bệnh càng ngày càng nặng, mới triệu viên trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về thương nghị việc dời đô ra Nghệ An".
Sách "Ngụy Tây liệt truyện" có chép: "Từ đó bệnh của Vua không chữa khỏi được và trở nên nguy kịch. Trước khi mất vua Quang Trung căn dặn các cận thần rằng: “Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai có cả cõi Nam này. Nay đau ốm tất không khỏi được. Thái tử (Quang Toản) tư chất hơn cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn Phúc Ánh) là quốc thù, mà Thái Đức (Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lảo thảo thôi. Lũ người nên hợp sức mà giúp thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh) để khống chế thiên hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn thân".
Thế nhưng khi vua Quang Trung mất, việc xây dựng kinh đô bị gác lại. Quang Toản lên ngôi đã không dời đô theo ý vua cha.
Đến năm 1801, Nguyễn Ánh đem quân đánh Phú Xuân, vua Quang Toản chạy ra Thăng Long. Lúc này lầu rồng 3 tầng ngay chính giữa Phượng Hoàng Trung Đô đột nhiên sụp đổ.
Sách "Hoàng lê nhất thống chí" mô tả: "Tháng 6 mùa hè năm ấy (tức 1801), thình lình viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Thận sai người báo tin là Lầu Rồng ba tầng ở đấy tự dưng đổ sụp, những người nghe tin đều cho là điềm chẳng làn".
Quả nhiên, sang năm 1802 nhà Tây Sơn mất.
Xem thêm: Giai thoại huyền bí về cuộc đời cụ Tả Ao - “thánh phong thủy” thay đổi được thiên mệnh
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận